Tôi vào thành phố Hồ Chí Minh lần này muốn đến thăm người bạn thân, nhà văn Xuân Đài nhưng gặp khó vì lỡ đánh mất chiếc điện thoại trong chứa danh sách bạn bè. Không biết hỏi ai, đành liều, cứ hai, ba lần chuyển xe bus từ tận Thủ Đức tìm đến chung cư Nguyễn Biểu mãi bên quận Năm, nơi ở cũ của bạn. Nhưng căn hộ quen thuộc nay đã thay đổi. Người chủ mới cũng không rõ người bán lại căn hộ cho mình chuyển đi đâu. Đứng giữa sân chung cư mà ngổn ngang. Đang băn khuăn không biết hỏi ai thì một cậu xe ôm lao tới :
- Bố đi đâu, con chở. Tôi lắc đàu.
- Thì bố muốn tìm ai ?
Tôi miễn cưỡng nêu tên. Thì lập tức cậu xe ôm reo lên: Con biết, chú nhà văn để râu dài ấy thì con biết nhưng bây giờ chú ấy ở xa đấy, mãi tận Đồng Nai lận.
Mừng rỡ tôi leo ngay lên xe rồi hối hả: - Vậy cho chú tới luôn đi.
Trên đường đi cậu xe ôm cho biết, hồi nhà văn Xuân Đài còn ở cùng chung cư, cậu thấy ông một thân một mình, tính tình cởi mở nên cậu hay qua lại, thành thân thiét. Cậu xe ôm còn khoe : Ổng còn tặng con mấy cuốn sách ổng viết. Toàn truyện nói về những người nghèo khó chúng con thôi.
Bây giờ tôi nhớ ra. Xuân Đài vốn được coi là con người của đường phố. Bạn bè, người quen biết của ông ngoài những nhà văn, nhà thơ, trí thức tâm huyết, các học trò từng theo học ông ở trường báo chí là những người lao động chân tay, buôn thúng bán bưng, xe ôm, đánh giầy, vé số dạo…thậm chí cả các cô gái ” bán hoa “ khốn khó. Có lí do. Ngày ông trong ban quản trị khu tập thể có mấy cô ở thuê nhà mà người ta nói với ông rõ là các cô từ tỉnh lên làm ăn không mấy chính đáng.. Có người nói ông phải nghiêm khắc . Thậm chí đuổi họ đi dể trong sạch tập thể. Nhưng Xuân Đài không làm vậy. Ông cho gọi các cô đến trò chuyện thân mật, hỏi han rồi khi đã được các cô tin tưởng mà tâm sự, khi ấy ông mới thành thực khuyên nhủ. Sau đó các cô còn được ông mời đi chiêu đãi phở bò. Ông chỉ nghĩ , họ cũng là con người, nếu ở họ có làm việc gì không đúng thì nên lấy tình yêu thương mà ứng xử. Nhiều người cho là ông hữu khuynh. Nhưng không ngờ kết quả. Nhiều cô nghe ông. Có cô bỏ nghề để tìm các công việc lao động chân tay. Có cô về quê. Đáng nói là họ vẫn đến thăm nom ông, cảm ơn ông. Thân mật gọi ông là bố. Các cô nói, con thấy bố không coi khinh, vẫn coi chúng con như những con người nên con tin và kính trọng..
Đến Biên Hòa còn vòng vèo qua nhiều con đường, rồi qua các con hẻm chẳng có tên, cũng chẳng có số nhà, vậy mà cậu xe ôm cứ lao vùn vụt. Thầm nghĩ, nếu không gặp thổ công này thì đúng là có nói địa chỉ cũng đành chịu chết. Đi mãi rồi cũng đến nơi. Dựng xe trước một căn nhà nhỏ, mái tôn, cửa sắt hoen rỉ, cậu xe ôm tắt máy rồi vẻ rất quen thuộc, đập cửa ầm ầm. Thấy tiếng động Xuân Đài trong nhà ló ra. Nhận ra bạn cũ, mừng ơi là mừng, chuyện trò rối rít quên cả vào nhà. Hỏi sao không ở Sài Gòn mà chuyển về đây ? Thì ra thấy ông ở Sài Gòn đã cao tuổi, lại có một mình, sợ có vấn đề gì nên các cô em ông nói con cái đón bác về để chúng tiện chăm sóc. Có xa trung tâm một chút nhưng yên tâm. Ông thấy cũng phải nên theo.
Khi cậu xe ôm đánh tiếng: con chào các ông, con về, thì tôi mới sực nhớ. Nhưng lúc thanh toán tiền xe, cậu xe ôm đã đưa lại cho tôi: “ Ông là bạn của ông Xuân Đài nên con bớt cho ông”
Tính Xuân Đài tếu táo, hóm hỉnh, cứ tưng tửng trước ai đó, dù là một thường dân hay một quan chức. Ông hài hước trước cả những chuyện chẳng ra đâu mà nhiều người luôn làm vẻ quan trọng. Với ông, chỉ có lòng tốt và sự tử tế của con người là đáng nể trọng. Xuân Đài là người thẳng thắng , trực tính, không thích vòng vo.Tôi nhớ, ngay với một người bạn thân của ông, ngày ngày trà lá hơn cả ruột thịt vậy mà ông cũng đã từng gay gắt, cho là viết như thế là không thật.
Nhà văn Xuân Đài nom khác nhiều so với lần gặp mấy năm về trước. Râu tóc để dài, đã bạc trắng, bước đi chậm chạp, rõ ra một ông già. Mà già thật rồi còn gì. Hơn tám mươi rồi. Số vất vả. Xuân Đài họ Lê, quê Hương Sơn, Hà Tĩnh, làng Xa Lang đất học nhưng sinh ra tại một nhà thương ở Vinh. Năm tuổi, mẹ mất. Một mình ông bố không đủ khả năng chu tất cho hàng chục thành viên gia đình nên từ nhỏ anh chị em mỗi người tản mát làm ăn sinh sông một nơi, suốt trong Nam, ngoài Bắc. Đang theo học chưa hết cấp 3, tuổi mới 15, 16 Xuân Đài đã phải bỏ học, tự kiếm sống. Ông đi Thanh niên xung phong, lao động chân tay bôn ba khắp Tây Bắc rồi Việt Bắc. Lên lao động mãi trên mỏ Apatit Lao Cai, khi ấy còn hoang vắng. Chuyện này sau được ông kể lại rành rẽ trong truyện : “Tuổi thơ kiếm sống “.
Chúng tôi quen biết nhau tính ra đến nay cũng hơn nửa thế kỉ. Từ đầu những năm sáu mươi của thế kỉ trước. Khi ấy, Xuân Đài tốt nghiệp lớp báo chí đầu tiên cùng với Trần Hoài Dương, Hoàng Quóc Hải, Phan Thị Thanh Nhàn, Dương Thị Xuân Quý… toàn những người trẻ, yêu văn chương, mộng mơ, trong trẻo. Khi ra trường hầu hết đều trở thành nòng cốt cho các tờ báo lớn ngày ấy. Trần Hoài Dương về tạp chí Học Tập ( nay là Tạp chí Cộng Sản ), Dương Thị Xuân Quý đi B,Hoàng Quốc Hải về báo Vùng Mỏ…còn Xuân Đài được phân công về báo Việt Nam Độc Lập, cơ quan của Đảng bộ đảng lao động Việt Nam khu tự trị Việt Bắc trên Thái nguyên. Khi đó tôi đang công tác bên sở Văn hóa khu tự trị Việt Bắc. Gặp gỡ rồi thân thiết, cả sau này khi Xuân Đài chuyển về Hà Nội , công tác tại Tạp chí Dân Tộc của Ủy ban dân tộc trung ương, sau chuyển về Đài phát thanh tiếng nói Việt Nam rồi nghỉ hưu chúng tôi vẫn liên hệ, qua lại.
Xuân Đài nghỉ, lương hưu có hỏi mới biết, quá thiệt thòi. Tính ra chỉ bằng một phần hai, phần ba so với cán bộ trang lứa, đấy là chưa dám sánh với công an hay quân đội về hưu. Ông vào Sài Gòn sống. Những ngày ấy nơi thành phố luôn nhộn nhịp nhưng ông lại không mấy vui. Không may mắn trong hai cuộc hôn nhân của mình, ông dồn tình cảm vào cô con gái lớn, chỗ dựa tinh thần của ông. Nhưng rồi người con gái ấy cũng đã bỏ ông đi sau một cơn bạo bệnh.
Nhiều người hỏi, lương hưu hẻo vậy, làm sao sống? Sao ông không thắc mắc để người ta giải quyết ?.Nhưng ông bảo, có lẽ thế hệ ông là thế hệ cam chịu. Hơn nữa, tính ông tự trọng cao nên ông không thắc mắc, không cay cú, bất mãn. Và để tồn tại, tất nhiên phải tìm việc làm thêm. Ông quan niệm, việc gì có thể làm thi ông cố gắng, nếu đó là một công việc lương thiện và phù hợp với sức khỏe. Bởi thế nên ngày mới hưu ở Hà Nội, ngày ấy viết lách khó khăn nên có thời gian ông còn làm thêm cả việc của một người chở xe thuê, rồi đạp xích lô. Nhưng cũng là một tay xích lô không giống ai. Có lần đón một bà từ quê ra đi tìm người nhà, chở mãi đến nơi nhưng bà đỏ mặt, lúng túng vì không đủ tiền. Nhìn khuôn mặt thật thà, tội nghiệp của bà nhà quê, Xuân Đài chẳng những không lấy số tiền ít ỏi bà đưa trả mà ngược lại còn lục tìm trong túi lấy thêm tiền của mình để đưa bà. Xuân Đài đạp xe đi xa rồi mà bà nhà quê còn ngẩn ngơ dõi theo mãi.
Hồi ở Ủy ban Dân tộc người ta có cử ông theo học Đại học tổng hợp Sử, rồi sau nhiều năm viết văn, làm báo nên khi vào Sài Gòn bạn bè quen biết mời ông làm thỉnh giảng tại trường báo chí, phát hanh, truyền hình phía Nam. Nhiều học trò ông sau này ra trường, có người thành thạc sĩ, tiến sĩ nhưng vẫn nhớ, vẫn trọng tư cách và hiểu biết qua những bài giảng sâu sắc của ông. Ngay cả sau này , sức yếu ông không giảng dạy được nữa thì học trò vẫn qua lại, thăm hỏi. Bây giờ, tuổi cao, sức yếu ít đi lại thì ông tập trung viết báo, viết sách. Tôi biết Xuân Đài từng rất nổi tiếng với những bài báo, phóng sự, truyện kí… và là cây bút chủ lực ngay khi ông mới về báo Việt Nam Độc lập, đặc biệt tình cảm của ông như dồn vào những bài viết về những đổi thay trên quê hương cách mạng. Ông viết chân thành. Rồi thời gian thường trú tại Lạng Sơn giúp ông có vốn sống và tư liệu để viết nên truyện dài :” Tuổi nhỏ Hoàng Văn Thụ “, nói về một phần cuộc đời của nhà cách mạng kiệt xuất người dân tộc Tày, được xuất bản vào năm 1967. Đáng nói, khi ấy nhà văn Tô Hoài cũng đã có cuốn tiểu thuyết với nội dung này. Vậy nhưng sách của Xuân Đài vãn được tái bản tới ba lần. Rất gần đây Xuân Đài còn có :” Tuổi thơ kiếm sống” cũng có số lượng xuất bản khá ấn tượng 24. 184 bản cho một lần in.
Xuân Đài đến với văn học bắt đầu là thơ. Từ những năm 1960 – 1970 ông đã có thơ in chung tập cùng Tố Hữu, Huy Cận, Chế Lan Viên…. Chỉ với một tập thơ duy nhất nhưng tập thơ :” Tạ Tội “ của ông rất ám ảnh. Trong bài thơ : “Ngẫm sự đời “ ông tâm sự:
.
Kỷ niệm vui
Nhớ lại để mà buồn
Kỷ niệm buồn
Nhớ lại để mà đau
Nỗi đau đang đau
Chưa thành kỷ niệm
Chẳng nuối tiếc những điều đã mất
Chỉ xót xa sự trong sạch bị vấy bùn
Xuân Đài có hai tập truyện ngắn :”Ba người trong hẻm đuôi Voi “ và “ Hai người đàn ông và một người đàn bà ở phố Hàng Đào “, và đây đều là những tập truyện ngắn rất đáng đọc. Có truyện ngắn của ông còn được một nhà xuất bản bên Pháp chọn dịch. Ở Xuân Đài nhất quán một phong cách, không né tránh những nhức nhối xã hội đang diễn ra mà không ít nhà văn thường ngần ngại, không dám nói ra sợ đụng chạm. Ngòi bút của ông đã dám đi đến cùng mọi ngõ ngách, mọi thân phận, những cảnh ngộ trớ trêu, thậm chí không mấy may mắn, bình an. Ông viết khách quan, thẳng thắn, trần trụi như cuộc sống vốn có. Tuyệt đối không tô vẽ và không bôi đen.
Xuân Đài từ lâu đã là một nhà văn tên tuổi. Ông có thơ, có truyện ngắn, truyện dài, tiểu thuyết…rồi kịch bản điện ảnh…rất nhiều độc giả biết và đọc ông. Bạn bè văn chương với ông là những Nguyễn Khải, Nguyễn Quang Thân, Hoàng Quốc Hải, Hà Nhật, Đoàn Lê, Tạ Vũ v.v… và trước nữa là Phùng Quán, Phùng Cung, Tuân Nguyễn, …Nhưng có người nói vui, ông là một nhà văn ngoài quốc doanh. Tức là ông chưa phải hội viên hội nhà văn Việt Nam. Phàm người ta quan niệm, được kết nạp vào hội nhà văn thì mới được coi là…nhà văn chính hiệu dù có khi chẳng ai biết anh ta là ai, viết cái gì. Nhiều người băn khuăn cho ông. Tác phẩm ấy , đóng góp văn chương thế mà đến nay vẫn chưa là hội viên. Nhưng với ông, điều đó không làm ông quan tâm. Quan trọng là viết cái gì, viết như thế nào, những ai đọc và còn nhớ đến ?. Và ông vui vì còn là một nhà văn… ngoài quốc doanh.Tức là ông được viết những điều mà ông thấy cần phải viết, thấy cần phải có thái độ cụ thể, không chung chung, nhạt nhòa, không bị câu nệ, ràng buộc vào những thứ không phải văn chương. Nên ông vẫn miệt mài viết.
Bây giờ người ta luôn nói đến những vấn đề lớn lao mà thường quên đi rằng, cái cốt lõi của sự lớn lao chẳng phải đâu xa mà ở chính mỗi con người. Đáng nói, cả khi viết về những con người dù đang dưới đáy xã hội thì tác giả vẫn muốn người đọc có thêm niềm tin vào lòng hướng thiện nơi mỗi con người. vẫn mong muốn trân trọng, lắng nghe con người bằng những sự yêu thươ ng, cảm thông dù đâu đó có thể khác chính kiến , khác quan điểm. Mặc dù bản thân không ít lần chính nhà văn từng nói, bây giờ hình như lòng tốt, sự tử tế nơi con người trong xã hội đã không còn được như xưa, như đã rơi rụng đi nhiều.? Có vẻ ông thái quá ? Nhưng những người quen biết ông nhiều năm thường chung nhận xét, bản thân ông luôn là một nhân cách nên ông có quyền nói đến những vấn đề ấy một cách luôn mạnh mẽ và quyết liệt. Nhiều nội dung trong các truyện ngắn của ông rất đáng chú ý. Tôi đã đọc và không thể quên những truyện ngắn của ông mà có truyện kể ra có thể chẩy nước mắt. Chẳng hạn như truyện ngắn :” Trận địa mới “ Chuyện về hai sĩ quan , một thuộc chế độ ta, một là chế độ miền Nam cũ, rồi khi tìm việc làm cả hai sau được nhận làm thuê cho một ông chủ người …nước ngoài. Qua chung một công việc, từ hận thù nay họ lại trở thành bạn bè..Hóa ra sau đổi mới như các giá trị thẩy đều đã thay đổi ? Một truyện khác. Có ngôi mộ hoang mà khi khai quật người ta thấy trong đó có những hai bộ xương, lại trong tư thế như đang vật lộn nhau. Phải gỡ mãi mới tách từng người ra được. Những người trong vùng kể lại, đó là hai lính chiến, cũng từ hai phía, trong một trận quyết tử họ bằng mọi cách để triệt hạ đôi phương. Nhưng rồi kiệt sức, cả hai đều không thể sống sót. Nhân dân thấy vây không cách nào khác là dành đem chôn cất cả hai chung một nấm mồ trong nguyên tư thế ấy…Đại loại truyện của ông là vậy.
Nhiều người nói, Xuân Đài chính là một trong những người đầu tiên thông qua văn chương đã góp phần hòa giải dân tộc.
Chợt nhớ đến một lần gần đây trên truyền hình phát chương trình “ Lục Lạc Vàng “ tôi bất ngờ khi thấy xướng tên nhà văn Xuân Đài là người đã dành tặng nông dân nghèo ở huyện Yên Thành – Nghệ An một đôi bò giống nhằm góp phần giúp bà con thêm công cụ sản xuất. Cũng đâu ít, cả mấy chục triệu đòng. Số tiền không lớn, thậm chí là nhỏ, rất nhỏ so với nhiều đại gia, những cô gái có đôi chân dài hơn mức bình thường, hoặc rất nhiều quan chức vợ lớn, vợ bé nhưng chưa bị phanh phui…Nhưng tôi biết Xuân Đài nghèo, lương hưu như thế, sức khỏe như thế, tuổi tác, bệnh tật, nhất là tiền sử tim mạch, đòi hỏi tốn kém thuốc thang. Tôi thắc mắc, ông không dư dả gì, sao không biết dành dụm lo tuổi già . Tôi lỡ buột miệng, hay ông muốn nổi tiếng ? Đến đây thì Xuân Đài bỗng nổi nóng. Rồi ông lục tìm điện thoại tra số và rất to tiếng với ai đó. Thì ra ông gay gắt với cô phóng viên truyền hình, học trò cũ của ông. Lại một lần nữa cô phải chịu trận. Cô biết mình sai vì khi đưa tiền ông đã rất cẩn thận dặn đi dặn lại không được nêu tên ông vậy mà cô không theo yêu cầu chỉ vì cô không muốn người thầy không giống ai của mình” Áo gấm đi đêm “. Ông lí giải, Làm việc thiện mà chỉ cốt đánh bóng tên tuổi hay lợi dụng nhằm quảng cáo thương hiệu buôn bán của mình thì chỉ là một trò lừa đảo, lố bịch. Ông thì không cần điều dó. Chẳng qua, theo ông, tuy mình nghèo nhưng dù sao vẫn còn hàng tháng có chút lương hưu. Một đất nước vẫn phần lớn dựa vào nông nghiệp, gia đình ông cũng đã ở nông thôn nên ông hiểu vẫn còn rất nhiều bà con nông dân đang còn khốn khó luôn rất cần sự giúp đỡ một cách cơ bản. Tất nhiên sự giúp đỡ của ông , dù với hoàn cảnh của ông số tiền là lớn được ông dành dụm chắt bóp phòng khi có việc. Nhưng theo ông, sẽ chỉ như cát bỏ biển nếu như cả cộng đồng mặc ai nấy sống mà không nhìn vào đồng loại.
Cái không giống ai của Xuân Đài còn ở việc này. Từng đến như hầu hết những nơi Xuân Đài tá túc, khi là một phòng to rộng, khi chỉ là một gian nhỏ nhưng tôi thường thấy trên ban thờ của ông, bên cạnh chân dung những người ruột thịt đã qua đời còn thêm những tấm hình của nhà văn hóa Nguyễn Hữu Đang, nhà thơ Phùng Cung, nhà thơ Phùng Quán, nhà thơ Tuân Nguyễn. Việc làm này của Xuân Đài làm tôi hết sức ngạc nhiên. Tôi hiểu, trong tâm linh người Việt thì việc thờ cúng, đặt hình ảnh họ trên ban thờ gia tiên là một cái gì rất đỗi thiêng liêng. Hơn nữa, khi ấy đây là những tên tuổi mà xã hội còn rất ngần ngại khi quan hệ, lo sợ liên lụy. Một việc mà không phải ai cũng có thể làm. Việc trên ban thờ có thêm cả những người không họ tộc như vậy được ông giải thích : Đó là những người , là anh, là bạn kết nghĩa với ông đã nhiều năm. Nhưng trước hết đó là những nhân cách rất đáng trân trọng. Mà nhân cách thì thời nào cũng rất cần, rất đáng nể trọng. Tôi không rõ lắm về trường hợp từng người cùng mối quan hệ nhưng luôn nghĩ rằng giữa họ phải có tình nghĩa rất sâu nặng nhưng tôi chưa cặn kẽ. Rất may gần đây được đọc tập tạp văn: ” Chuyện Cà kê “ mới xuất bản của ông, được ông trải lòng mình về trường hợp từng người được ông viết ra trong các bài viết :”Ngây thơ Nguyễn Hữu Đang ,” “Tình bạn giũa hai nhà thơ họ Phùng, Phùng Quán – Phùng Cung “, “ Nhớ Tuân Nguyễn “, “ Phùng Quán còn đây “. thì tôi mới rõ ra. Đó là những người mà một thời từng bị oan khiên, nạn nhân của sự ấu trĩ và lầm lẫn một thời, tai vạ không đâu . Đáng nói, họ là những nhân cách. Nhân cách cả trong những ngày tù đầy vì hàm oan và cả sau này khi được minh oan ra tù, dù đó là những ngày cùng cực. Nhưng ở họ tất cả vẫn trước sau sống trọn nhân cách.
Khi trang trọng đặt di ảnh những người đã khuất kia lên ban thờ là khi Xuân Đài đã đặt niềm tin vào các giá trị người. Những giá trị mà nói như nhà văn Trần Thùy Mai khi nhận xét về các giá trị tư tưởng được đặt ra trong hầu hết các truyện ngắn của ông : “Đó là các giá trị không thể bị vùi lấp vì đói nghèo, lầm lạc, ngộ nhận. Đó là niềm tin vào con người Việt Nam, niềm tin ấy như ngọn lửa ấm áp soi sáng trên những phối cảnh của một thời chưa xa lắm.”