Trang chủ » Tin văn và...

CON ĐƯỜNG HƯỚNG THIỆN CHO NHÂN VẬTTRONG TIỂU THUYẾT “THUỶ SINH” CỦA NGUYỄN QUỐC HÙNG

Hoài Khánh
Thứ ba ngày 15 tháng 11 năm 2011 8:42 PM

 Thuy

 

Đọc xong cuốn thiểu thuyết “Thuỷ sinh” của Nguyễn Quốc Hùng (Nhà xuất bản Hội Nhà Văn - 2011) sẽ không khỏi băn khoăn bởi đâu là con người lương thiện trong số những con người đang vật vã mưu sinh trên dòng sông Cấm.

Sống nhờ dòng sông ngàu đục, đỏ như màu tôm luộc, họ cũng là một kiếp thuỷ sinh. Những con người mưu sinh bằng nghề “gắng cào bùn cho nhanh để tìm những mẩu sắt vụn rơi xuống”, và “ngửa cả ngày cho bọn thuỷ thủ “đâm” tả tơi, thế mà khi về đi nhờ sang sông mà mẹ con nhà Cống cũng lấy hai chục” “chẳng lẽ ngày nào cũng chấn tiền của công nhân” và còn cả tầng lớp người “đã học được kỹ nghệ này ở trường đời, từ chính những kẻ như Luật là quan chức mà hám tiền hám gái mà ra”. Cực nhọc, khổ nhục, thậm chí phải đổ máu mới kiếm được “mỗi chuyến tàu rời bến, moi móc lòng sông cũng kiếm đủ gạo ăn một tháng. Lần nào cũng hy vọng công nhân bốc xếp làm ẩu để rơi hàng xuống sông thật nhiều còn kiếm thêm chai rượu”. Triết lí cuộc đời của những con người vật vã mưu sinh này, “tựu chung lại, tình và tiền hợp lại thành thứ đạo để con người tôn sùng và trút giận. Tiền càng nhiều, tình càng rộng thì con đường đạo càng thênh thang”. Với triết lí cuộc đời ấy, họ như một mũi tên đã rời cây cung bay về đích và vì tiền mà sẵn sàng “cắn xé nhau như chó.

Trục trung tâm của tiểu thuyết xoay quanh ba nhân vật: Phương, Thành, Luận và cuộc đời của Phương, Luận là hai trục nhỏ quay xung quanh Thành. Tác giả tạo ra trục trung tâm này quay quanh trục trung tâm khác muốn một đích tới, nhưng được tiếp cận bằng nhiều hướng khác nhau, muốn giải quyết một hệ quả rằng, nhiều tầng lớp xã hội cùng bị chi phối bởi một nguyên nhân sẽ cho kết quả ra sao.

Phương và Thành có mối tình đầu đời trong sáng. Cùng nghe theo tiếng gọi của đồng tiền, cả hai đã mờ mắt đi tìm “một thế giới lắm tiền nhiều của,… chỉ ở nhà hưởng trợ cấp thất nghiệp cũng đủ sống đàng hoàng”. Nhưng Phương ũng phải trở về nước mang theo nỗi thất vọng không tìm được bến đáp hi vọng và đồng hành là sự bất lực của “thằng đàn ông” do cuộc sống hà khắc trong trại tị nạn gây nên. Đó cũng chính là sự bất lực cho cuộc đời mà Phương không thể vượt qua. Còn Thành trở về nước cũng tưởng chừng đã tìm được hướng đi cho cuộc đời với người chồng và một nghề đảm bảo đủ đầy về vật chất. Rồi số phận hay tham vọng đã sắp đặt cho Phương và Thành tan rồi lại hợp, cùng dắt tay nhau đi trên một con đường đời. Trở lại với Thành, Phương đã tìm lại được “thằng đàn ông” đích thực. Và ước vọng cho tương lai của Phương “có đứa con, cuộc đời sẽ bớt cô đơn hơn, bớt lẻ loi một thân một mình trên cõi đời, sẽ khép vòng tròn cuộc đời Phương được kín hơn”. Nhưng tham vọng lớn nhất của Phương và Thành lại là tiền, là tình, đâu cho họ một cuộc sống bình yên như vậy. Họ lao vào những phi vụ làm ăn bất minh và tội lỗi: chấn tiền công nhân, áp chế những người làm ăn lương thiện.

Cuộc đời Thành sao lạ thế, “toàn gặp phải những người đàn ông bất lực về chuyện ấy”. Tìm đến Thành,  Luật giắt theo cùng ví tiền chật cứng là tâm địa trả thù vợ, người gây nên nỗi khổ đàn ông của Luật. Luật và Thành cũng tìm được đam mê về tình ái> Nhưng Luật không phải là Phương, mỗi người có con đường đi riêng của mình. Luật vẫn là kẻ bất lực chuyện chăn gối bởi hắn quá phí phạm từ những mưu toan đường đời, những mối lợi thực tế. Vì cái tình với Thành mà Luật từ một quan chức mẫn cán chỉ biết đến sách vở, tận tuỵ với chuyên môn, đã được “Phương chỉ cho Luật thấy, dạy cho Luật bài học ở đời còn nhiều kẽ hở lắm, hãy lách vào, chịu đựng mà tìm cơ hội hưởng lợi”, để rồi nhờ những lời chỉ bảo ấy mà “leo cao được như bây giờ”. Thế rồi “thằng đàn ông” trong Luật cũng được cứu bởi một cô gái điếm.“Thằng đàn ông” của Phương và Luật được cứu không phải vô tình.

Ai cũng có quãng đời ấu thơ thật đẹp. Với Phương là dòng sông trước cửa nhà êm đềm, Nay “mọi ngôi nhà của làng đều dịch chuyển, quay hướng ra đường quốc lộ cho xứng với tầm vóc mới, với điều kiện sinh sống mới” Ngôi nhà của Phương trở nên hoang vắng và “dòng sông chỉ còn làm nơi chứa chất lỏng để phục vụ những con tầu vỏ thép khổng lồ. Nó sống có nửa phận đời”, chỉ còn những giọt nước trơn nhớt, chỉ còn những con cá úc vàng nhợt, tanh nồng. Với Luật, sinh ra và lớn lên ở làng quê nhỏ bé, có những mái nhà như những con người đang ngồi tụm đầu vào nhau trò chuyện thân tình, có những gian nhà tường tróc hết vữa bởi đã trải qua mấy đời. Thế mà trong chốc lát làng quê xưa đã biến thành sân gol, thành thước đo độ căng của túi tiền, giá trị văn hoá bị biến thể “chén bằng sứ Giang Tây, nước được khử trùng bằng hoá chất, được đun trong ấm điện của Nhật, trà được trồng bằng giống mới nhờ kích thích tăng trưởng, tất cả không phải nguyên trạng từ xa xưa, thế nhưng người ta vẫn tự cao cho là đã giữ được bản sắc dân tộc, quốc hồn quốc tuý” Thế ra, “Họ huỷ hoại mà không cho rằng mình là kẻ gây nên tội, bởi họ còn mải giành giật từng đồng tiền để thoả mãn những hoan lạc khác”. Vì vậy “thằng đàn ông” trong Phương và Luật chỉ được cứu bởi nỗi “khi tìm được đam mê trong bản ngã của mình thì con người mới dựng dậy được. Tại sao chỉ có Thành mới thổi được ngọn lửa tình trong Phương bùng cháy. Mỗi lần được làm tình thoả mãn Phương thấy mình thanh thản, cái tình con người quện lấy nhau. Đó là lúc ký ức trở về”.

Cái đẹp trong cuộc sống, trong mỗi con người ngày nay tìm được hiếm lắm. Nhưng hãy cất công đào bới đi, tiềm ẩn sâu xa trong mỗi người ai cũng có, nằm sâu trong mọi ngóc ngách cuộc đời đâu cũng có. Phải tìm được cái đẹp đích thực thì cuộc sống mới có ý nghĩa, con người mới dựng dậy được. Con đường hướng thiện cho nhân vật trong tiểu thuyết “Thuỷ sinh” của Nguyễn Quốc Hùng đề cập tới là thế.

Đọc xong “Thuỷ sinh” không khỏi sót xa, nhân vật Phương tưởng chừng sau khi hoàn tất mọi mưu toan trên quãng đường đời vừa qua chỉ còn hướng tới một tương lai được sống thanh thản, nhưng “mấy kẻ hộc tốc chạy cho kịp chuyến phà đang rời bến xô đẩy Phương ngã dúi xuống hè đường thì dằn vặt mới lại ập đến... Mạng sống con người rẻ đến thế thôi sao?”. Sót xa cho những thân phận phải gồng mình gắng vượt qua cuộc sống khắc nghiệt mà không nổi như Tươi, như Vinh “vổ”, như Cường “kễnh”… Những thân phận thuỷ sinh sống nhờ dòng sông mà “dòng sông thì vẫn đỏ màu phù sa nhưng nước thì thay đổi quá nhiều rồi, đặc sánh, khét nồng mùi dầu máy …”

Qua “Thuỷ sinh” - tiểu thuyết thứ ba của Nguyễn Quốc Hùng, một lần nữa bạn đọc lại thấy tác giả thể hiện được vốn sống phong phú trong từng trang viết. Không biết có phải tác giả cố tình sắp xếp các tình tiết đan xen lẫn nhau, dẫn dắt mạch chuyện không theo một trình tự để những cuộc đời trong tác phẩm giống như thực tại cuộc sống đang diễn ra phức tạp khiến người đọc có phần khó theo dõi. Tin rằng, những con người hàng ngày phải vắt mồ hôi đổi lấy đồng tiền bát gạo sẽ lại được Nguyễn Quốc Hùng - một tác giả văn xuôi của Hải Phòng, một người công nhân lao động trực tiếp trên bến cảng - sẽ thể hiện nhiều hơn, sâu sắc hơn trong những sáng tác mới của anh.

HOÀI KHÁNH