
Tôi không hề ghét anh Bảo Ninh, trái lại có một tình cảm vị nể vì thời trẻ, khi làm thư ký tổ, thi thoảng tôi được giao nhiệm vụ mời GS Hoàng Tuệ qua bộ môn giảng chuyên đề. Ông là người thầy của ĐHSP nhưng rất gần gũi với ĐHTH vì lúc cuối đời làm Viện trưởng Viện Ngôn ngữ học, ông rất thân thiết với GS Nguyễn Tài Cẩn. Tình cảm kính trọng với người thân sinh ra nhà văn Bảo Ninh khiến tôi rất nhiệt tình tham gia ngày kỉ niệm năm sinh của GS Hoàng Tuệ cách đây vài năm. Theo sắp xếp của Ban tổ chức, lẽ ra tôi có vài lời phát biểu trong ngày quan trọng ấy. Nhưng có nhiều người đăng kí, nên cuối cùng tôi không lên diễn đàn.
Vài lời như vậy, tôi muốn nói đôi điều bạn đọc quen biết và bạn bè thân quen từng muốn tôi có đôi lời về cuốn “Nỗi buồn chiến tranh” (NBCT). Thật là khó khi tôi đứng ở nơi ngã tư đường với nhiều mối quan hệ chằng chịt. Trong số bạn bè thân quen, có người bức xúc phản đối, có người có ý kiến bênh vực. Chẳng lẽ đóng vai người ba phải? Lối nào cũng bất tiện cả. Trong bối cảnh ấy, tôi bỗng nhớ đến một kỉ niệm cách đây hai năm khi Viện chúng tôi đứng ra tổ chức biên soạn bộ sách nâng cao dành cho đào tạo học sinh THPT Chuyên văn và KHXH. Do nhu cầu Đổi mới, học sinh cần được trang bị các kiến thức toàn diện nên việc hướng dẫn cho học sinh hiểu được nỗi đau của chiến tranh bên cạnh những âm vang chiến thắng là một tiêu chí đặt ra. Có hai tác phẩm văn học được cân nhắc để đưa vào sách, đó là NBCT của nhà văn Bảo Ninh và bài thơ “Làm dâu” của Trần Mạnh Hảo. Tôi phải kỳ công đọc kĩ lại các tác phẩm này để đi đến chọn lựa cuối cùng. Điểm nổi bật của tác phẩm NBCT là nói về sự mất mát to lớn của con người trong chiến tranh ở các góc độ miêu tả, được khai thác triệt để nhất với các bút pháp giả tưởng, dòng ý thức… còn “Làm dâu” được viết theo dòng cảm xúc của người trong cuộc với những suy tưởng của một nhà thơ từng trải. Cả hai tác giả đều là những người lính từng kinh qua trận mạc và có các số phận khác nhau. Sau nhiều đêm suy nghĩ, tôi đã nêu quyết định cuối cùng để các thầy cô tham gia biên soạn đi đến thống nhất: Chọn “Làm dâu” mà không chọn NBCT vào sách để dạy cho học sinh với các lí do sau:
- Qui luật văn học là phản anh thực tế bằng hình tượng. Điều không đạt ở tác phẩm này là nó không tạo ra hình tượng đẹp để giáo dục học sinh, chưa nói là còn dễ làm cho các em nhầm lẫn giữa chính nghĩa và phi nghĩa, giữa cái cao cả và sự thấp hèn. Đành rằng, văn học có thể phản ánh sự ghê tởm đối với chiến tranh, nhưng nếu không có nhận thức rõ ràng về ranh giới của chiến tranh chính nghĩa và phi nghĩa thì chỉ còn nước là, khi giặc ngoại xâm tràn vào đành phó mặc cho ngoại bang giày xéo quê cha đất tổ của mình? Như thế khác nào phủ định con đường truyền thống của lịch sử ngàn đời đã chọn. NBCT chỉ nói được phần mất mát, đau đớn mà không thấy được nhiều cái khác cần có đối với lứa tuổi học tro. Vậy nếu đem dạy cho học sinh, vừa khó dạy, vừa tạo ra cái khó cho giáo viện. Thậm chí, nếu giáo viên non ớt mới vào nghề có thể biến dạy văn thành thứ phản giáo dục.
- Chọn bài thơ “Làm dâu” của Trần Mạnh Hảo, ban biên soạn sẽ gặp nhiều khó khăn hơn. Chắc bạn đọc ai cũng biết, Trần Mạnh Hảo là một người có nhiều bài phê phán quyết liệt các giáo sư và ngành giáo dục. Nói chung, ông là người gai góc, nhiều người khuyên tôi “đừng rây vào”, bởi nó sẽ đem đến nhiều bất lợi cho nhóm biên soạn thậm chí ảnh hưởng đến uy tín chung. Và quả nhiên, khi bản thảo đưa lên, cả cán bộ biên tập Nhà xuất bản cùng với Ban BT của Cty xuất bản đều gạch bỏ một cách không tiếc tay. Lí do: tác giả là người “có vấn đề chính trị”. Nhưng “vấn đề” là như thế nào thì không ai biết. Tôi đề nghị, để cho minh bạch, cần có một văn bản rõ ràng (có dấu đỏ) nói rõ việc không được dùng thơ TMH trong sách dạy Ngữ văn thì chúng tôi xin chấp hành ngay. Nếu làm việc không có văn bản mà chỉ dựa vào một “khẩu dụ” thì rất trái với tinh thần khoa học. Cuối cùng lãnh đạo NXB có ý kiến chỉ đạo: đây là bài thơ viết về vết thương chiến tranh một cách u ám, tiêu cực, không thể dùng làm ngữ liệu cho sách dạy Ngữ văn vì nó sẽ đem đến điều bất lợi trong nhận thức của thế hệ trẻ. Tôi lại mất mấy đêm đọc đi, đọc lại bài thơ, nghiền ngẫm ý kiến phản biện rồi đảm bảo với bên xuất bản là chúng tôi sẽ đưa ra cách dạy hay và đúng với bài thơ “Làm dâu”. Tôi dám khẳng định như thế vì tôi tin năng lực nhận thức của thế hệ trẻ hôm nay cũng như phương pháp dạy học Đổi mới của chúng tôi. Riêng về tư duy, lớp trẻ hôm nay đã trưởng thành hơn thế hệ chúng tôi rất nhiều. Cuối cùng bài “Làm dâu” được chấp nhận đưa vào vào bộ sách dạy Ngữ văn nâng cao dành cho trường THPT Chuyên với sự đồng thuận của cả ba cơ quan. Có thể xem đó là sự may mắn.
Về phương diện sáng tác, tôi không phản đối việc nhà văn Bảo Ninh đem hết nỗ lực để miêu tả các góc khuất, các hiện tượng cá biệt, nhưng tôi thấy tiếc là anh trút hết năng lượng vào đó nên cuối cùng hình tượng văn học anh đem đến thiên về nỗi thất vọng, chán chường. Trong cuộc chiến tranh này, nhiều gia đình, dòng tộc có con em tộc tham gia và nhiều người đã bỏ mạng trong cuộc chiến (trong đó có cả gia đình và dòng tộc nhà tôi). Nỗi đau ấy là vô tận. Nên đọc xong tác phẩm nhiều người có cảm bùi ngùi. Lẽ nào sự hi sinh ấy đã trở nên vô nghĩa? Nếu chiến tranh là vô nghĩa thì ai tham gia vào thì đều là ngu đần, mù quáng hay sao? Vì tác phẩm không lí giải được được điều đó nên cả các CCB và nhiều gia đình có người hy sinh đều cảm thấy bị tổn thương! Đông đảo các CCB trong đó có các vị tướng đã cảm thấy bị xúc phạm danh dự nên đã có ý kiến đòi truy tố nhà văn trước pháp luật. Điều này là phản ứng tâm lí tự nhiên giống như nhiều chiến binh của Việt Nam Cộng hòa cũ phản ứng khi xem phim “Mưa đỏ” vì trong đó có chi tiết người lính của họ thiêu cháy anh chiến sĩ Giải phóng. Họ coi đây là chi tiết bịa đặt phục vụ cho mục đích chính trị mà không cần quan tâm đó là chuyện có thật hay không?
Văn học vốn phản ánh hiện thực bằng hình tượng. Vì thế, có những chi tiết mà nhìn theo cách này nó là bịa đặt, nhìn theo cách khác nó lạ là ý đồ nghệ thuật. Xin nêu một chi tiết mà người đọc vẫn coi là vô lí, đó là chi tiết người lính vì hoa mắt bắn nhầm một người đàn bà lại tưởng là con đười ươi. Theo phương pháp tả thực thì đó là chi tiết không ai chấp nhận được. Nhưng đứng từ góc độ của bút pháp giả tưởng thì ở đây có một thông điệp ngầm: Khi “hoa mắt” thì cái này lại cứ lầm tưởng là cái kia. Ở bậc trừu tượng, đây là một phát ngôn nghệ thuật mang tính nhận thức. Đến một từng trải nào đó, người ta có thể liên hệ với thực tiễn xã hội và lịch sử. Ví dụ, không chỉ có các CCB mà cả dân tộc tham gia vào cuộc chiến này đều mong có ngày hòa bình để sống cuộc sống ấm no thực sự. Nhưng… ngoài kia, còn biết bao kẻ tham nhũng không nghĩ đến sự hi sinh xương máu của đồng bào, đang vơ vét tiền của, tài nguyên của Nhà nước, nhân dân một cách vô tội vạ thậm chí rất dã man. Điển hình là vụ Việt Á và các vụ tiếp tay cho kẻ làm thuốc giả. Mới nghe, ai cũng nghĩ đó là những con quỉ đội lốt người (đười ươi), nhưng đó lại là những con người bằng xương bằng thịt (giống như người đàn bà trong NBCC). Phải chăng, có không ít cử tri đã “hoa mắt” bầu họ vào các cái ghế quan trọng nhất của nước nhà….?
Nhìn từ góc độ của bút pháp giả tưởng thì NBCT chủ yếu mang thông điệp của thời hậu chiến. Tác phẩm đã thể hiện một cách phản ánh mới của văn học đương đại, trong đó chiến tranh chỉ là cà cái cớ cho các dòng suy tưởng và chiêm nghiệm. Tính tích cực hay tiêu cực tùy từng góc độ tham chiếu của người tiếp nhận văn bản cũng như mục đích sử dụng thông điệp này. Các cuộc tranh cãi đang xảy ra chính là dấu chỉ báo hiệu về sự rạn nứt trong nhận thức xã hội. Đây không còn là lúc thống nhất một chiều mà là lúc cọ xát của rất nhiều quan điểm. Cuối cùng, để làm rõ thêm những điều đã trình bày, chúng tôi xin phép đăng kèm bài thơ “Làm dâu” để bạn đọc hiểu thêm quan niệm của chúng tôi về giảng dạy cho lớp trẻ về chiến tranh.
LÀM DÂU
Trần Mạnh Hảo
Chị làm dâu cuộc chiến tranh
Hòa bình khóc kẻ chưa thành lứa đôi
Hứa hôn với lính lâu rồi
Nghĩa trang chị bạc tóc ngồi làm dâu
Giá ngày xưa kịp lấy nhau
Giờ này chắc đã con đầu bằng anh
Đất sâu đợi rỗng tiểu sành
Mộ chưa có cốt rừng xanh gửi hồn
Mỗi khi chim lợn kêu dồn
Khói hương khấn gió Trường Sơn tìm mồ
Đêm về đội lén khăn xô
Thương người nằm khoác ba lô mối đùn
Tay sờ ảnh mộ còn run
Xin thương rế rách chổi cùn chiến tranh
Gọi thầm nấm đất bằng anh
Chị xin nhận tấm cỏ xanh làm chồng