Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

TỔNG LUẬN VỀ NHÂN VẬT LỊCH SỬ TRẦN ÍCH TẮC

Vũ Bình Lục
Thứ bẩy ngày 19 tháng 10 năm 2024 7:01 AM


1.

Trong kho báu thơ văn đời Trần (1225-1400) còn lại đến ngày nay, vẫn còn đó thơ ca của một vị Hoàng tử được người đương thời đánh giá là xuất sắc nhất về mọi phương diện. Đó chính là Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc (1254-1329) . Ông nổi bật lên trong số các vị Hoàng tử con vua Thái Tông Trần Cảnh (1218-1277). Vậy mà cuộc đời ông, danh phận của ông lại chìm nổi ba đào là vì sao?

Nhưng bà mẹ nào đã sinh ra Trần Ích Tắc, thì ngay cả bộ sách sách ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ (ĐVSKTT) do Ngô Sĩ Liên ở đời Hậu Lê chủ biên, cũng không thấy chép. Mãi vài chục năm gần đây, người ta mới tìm thấy tấm bia cổ tại làng Miễu, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định, mới hay rằng, bà Vũ Thị Vượng, quê ở đây, chính là người đã sinh ra các vị Hoàng tử Chiêu Đạo Vương Trần Quang Xưởng, Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc, Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật (1255-1330).

Bà Vũ Phi (Vũ Thị Vượng) là bà Phi thứ 5 của vua Trần Cảnh, sinh hạ được ba người con trai, trong đó, ít nhất, cũng đã có 2 người xứng đáng được tôn vinh là bậc thiên tài. Đó là Trần Ích Tắc và Trần Nhật Duật…Riêng Chiêu Đạo Vương Trần Quang Xưởng thì chưa thấy rõ hành trạng. Chúng tôi chỉ được thấy sử sách ghi câu chuyện một người làm việc biên chép ở phủ đệ Chiêu Đạo Vương là Nguyễn Đại Phạp. Đại Phạp sau được triều đình cử đi sứ sang nhà Nguyên, có gặp Trần Ích Tắc ở đó.

Sách ĐVSKTT và miệng lưỡi cay độc của người đời sau, đã chép và nói về Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc như một kẻ hèn nhát đã bỏ nước chạy sang hàng Mông Nguyên. Lý do đơn giản vì Chiêu Quốc Vương cho rằng mình tài cao hơn tất cả các Hoàng tử mà không được làm vua, cho nên bất mãn đem cả gia quyến chạy sang hàng giặc. Sử sách chép như vậy đấy. Và nếu chúng ta cả tin vào câu chữ lạnh lùng của sách vở này, mà không cẩn thận suy nghĩ, thì sao biết được phía sau cái sự thật hiển nhiên nhìn thấy đấy, được chép như đinh đóng cột vào sách vở đấy, hoá ra, chẳng phải là ngây thơ lắm hay sao?

Một vị Hoàng tử, cho dù là rất giỏi, mà chỉ là con một bà Phi (Vũ Phi), thì làm gì “có cửa nào” mà mơ ước được ngồi lên ngai vàng ở triều Trần, mà “bất mãn” chạy sang hàng Mông Nguyên? Thật nực cười! Trong khi ấy, thiết chế nhà Trần đã rất chặt chẽ và ổn định. Thái tử phải là con bà Hoàng hậu, chính thất, mới được kế vị ngôi vua. Vua cha nhường ngôi cho Thái tử, lên làm Thượng hoàng, nhưng vẫn có quyền kiểm soát chính trường, có quyền phế truất vua con, nếu như vua con tỏ ra không xứng đáng. Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc còn có cơ hội nào nữa mà đòi được làm vua? Như vậy, việc sử sách chép như vậy, chẳng phải là hết sức phi lý hay sao?

Quy chế hai vua (nhị thánh) đã được triều Trần rút kinh nghiệm từ bài học đau lòng đã từng xảy ra trước đó, ở giai đoạn đầu của triệu Hậu Lý.

Chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu về nhân vật lịch sử Trần Ích Tắc, nghiền ngẫm suy tư cả chục năm trời. Và đã có những kiến giải khá đầy đủ, nhằm chiêu tuyết, minh oan cho nhân vật lịch sử vĩ đại, trong những vấn đề tưởng như đã thấy, đã rõ, đã mặc định, mà thực ra hoàn toàn không phải như vậy!

2.

Chúng tôi cho rằng, Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc là một thiên tài trác việt. Ông đã thành công rất lớn trong nhiệm vụ trá hàng, leo thật cao, chui thật sâu vào đội ngũ lãnh đạo nhà nước Mông Nguyên, do Hốt Tất Liệt cầm đầu. Ông được lãnh đạo tối cao nhà Trần tin tưởng, giao trọng trách hoạt động đơn tuyến này, là bởi chính ông (Trần Ích Tắc) mới là người xứng đáng nhất, tài năng nhất, có thể đảm nhiệm đại nghiệp đặc biệt này, trong hoàn cảnh cuộc chiến chống Mông Nguyên liên tiếp diễn ra rất quyết liệt, một mất một còn. Đó chính là một chiến lược tình báo hết sức tinh vi, được tổ chức lần thứ 2, sau vụ Hoàng tử Trần Nhật Duy được triều Trần cử làm con tin lên Mông Cổ.

Số là, trong 6 điều khoản mà Mông Cổ yêu sách Đại Việt, có điều khoản Đại Việt phải đưa Thái tử đến Mông Cổ làm con tin.

Sau cuộc kháng chiến chống xâm lược Mông Cổ lần thứ nhất (1258), mặc dù là kẻ chiến thắng, nhưng nhà Trần đã dùng kế sách mềm dẻo, chấp nhận yêu sách này. Mà không chỉ Đại Việt. Hầu hết các nước từ Á đến Âu, từ Âu về Á, đều phải chấp nhận yêu sách này của Mông Cổ, nếu không muốn bị tiệu diệt hoàn toàn.

Triều Trần đã thực hiện kế sách “tát nước theo mưa”, bèn tổ chức một vụ tình báo chiến lược. Đoàn người đưa Hoàng tử trưởng Trần Nhật Duy đến Mông Cổ làm con tin. Kết quả, đoàn tình báo “con tin” đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chia rẽ nội bộ Mông Cổ, khiến chúng đánh nhau mù trời. Nội bộ chúng đánh nhau càng lâu càng tốt. Lại còn phải giúp Tống đánh nhau với Mông Cổ, càng lâu càng tốt. Kết quả là, gần ba mươi năm sau, Mông Cổ mới có thể tiếp tục nhòm ngó xuống phương Nam để báo thù. Đại Việt có thời gian gần ba chục năm cũng cố, phát triển đất nước về mọi mặt, sẵn sàng đối đầu với quân xâm lược Mông Cổ lần thứ 2…

Ngay trong cuộc kháng chiến chống Mông Nguyên lần thứ 3 (1288), triều Trần còn tổ chức một cuộc trá hàng nữa, rất thành công. Đó chính là cuộc trá hàng chiến thuật của Hưng Ninh Vương Trần Tung (anh trai của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn). Trần Tung vào doanh trại Thoát Hoan hẹn xin hàng. Nhưng ngay đêm hôm đó, ông đã dẫn quân tinh nhuệ tập kích doanh trại Chủ tướng Thoát Hoan, khiến quân Mông Nguyên tan rã, phải rút chạy về nước. Trận đánh kỳ công trá hàng này, sách ĐVSKTT có chép.

Cũng nên hiểu rằng, Vân Nam Vương Thoát Hoan, lại là con rể của vua Trần. Công chúa An Tư làm vợ Thoát Hoan, đã sinh hạ được 2 người con. Sự hoà huyết vô tình hay hữu ý đó, hay do trời định đó, cũng đã góp phần không nhỏ, để tạo nên mối quan hệ rất tế nhị của Đại Việt và Mông Nguyên. Đương nhiên, cũng góp phần nào đó trong đại nghiệp của Trần Ích Tắc ở triều đình Mông Nguyên. Không có gì là không thể!

Ở triều Hậu Lý, các vua nhà Lý cũng thường dùng kế sách gả công chúa cho các vị tù trưởng vùng biên cương xa xôi. Các công nương ấy về làm vợ các tù trưởng, khiến quan hệ giữa triều đình với vùng biên ải gắn kết hơn. Đương nhiên, các công nương lá ngoc cành vàng, cũng phải được dặn dò gì đó, ví như việc phải để ý đến thái độ của các ông chồng tù trưởng. Nếu như có biến, thì các công nương cũng buộc phải thông tin cho triều đình, không thể khác.

Công chúa An Tư làm vợ Thoát Hoan, nhưng chắc cũng không chỉ là việc sinh con đẻ cái cho ông ta đâu. Kể cả Huyền Trân công cháu sau đó cũng vậy!

Có thể nói ngay rằng, trong các triều đại phong kiến và quân chủ chuyên chế, Triều đại nhà Trần trong sự nghiệp chống Mông Nguyên là oanh liệt vẻ vang nhất. Tất nhiên, triều đại nhà Trần cũng đồng thời là triều đại thành công nhất trong nghệ thuật tình báo chiến lược và cả chiến thuật. Thời kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc xâm lược Mỹ, dân tộc ta vẫn kế thừa, tiếp nối một cách thành công nghệ thuật tình báo tuyệt vời của cha ông.

Một số nhà nghiên cứu, khi đọc sách VỪA ĐI VỪA NGHĨ của Vũ Bình Lục, do chưa đọc chu đáo, cho nên vẫn còn một số vấn đề, một số chi tiết cảm thấy chưa thật tỏ tường, nên chưa hoàn toàn đồng thuận. Đó cũng là điều đơn giản và thường tình. Là bởi đối tượng thẩm mỹ, đối tượng tiếp nhận văn bản của bạn đọc cao thấp khác nhau.

Ở bài viết này, chúng tôi xin nói rõ thêm về một số vấn đề các bạn quan tâm, chưa cảm nhận hết.

A

ĐÂY LÀ MỘT VỤ TÌNH BÁO CHIẾN LƯỢC CỰC KỲ QUAN TRỌNG, DO LÃNH ĐẠO NHÀ TRẦN TỔ CHỨC. LẦN THỨ 2, SAU VỤ TÌNH BÁO CHIẾN LƯỢC DO VŨ UY VƯƠNG TRẦN NHẬT DUY DẪN ĐẦU, SANG LÀM CON TIN Ở MÔNG CỔ (1258)

Chúng ta phải xuất phát từ góc nhìn ở tầm vĩ mô về các phạm trù Địa-Chính trị, Địa-Quân sự, Địa-Văn hoá, Địa-Lịch sử… và cũng phải mở rộng tầm quan sát, mở rộng phạm vi nghiên cứu toàn cảnh, liên ngành, liên văn bản rộng lớn, sang cả bên kia biên giới hiện tại giữa nước ta và Trung Quốc ngày nay, để biết rằng, lãnh thổ nước ta (Nam Việt) từ thời Triệu Vũ Đế (Triệu Đà), sau đó là của nước Lĩnh Nam, do Hai Bà Trưng giành lại chủ quyền từ tay nhà Hán, bao gồm cả Lưỡng Quảng và quần đảo Hải Nam Trung Quốc chiếm đóng ngày nay. Và cũng phải có nguồn tư liệu phong phú, mới mẻ, thì mới có thể lý giải được các vấn đề lịch sử bấy lâu chưa được tỏ tường.

1.

Tại sao thi nhân Trần Ích Tắc được nhà bác học Lê Quý Đôn (1726-1784) sống ở thời Lê-Trịnh tuyển đưa thơ của Trần Ích Tắc vào bộ sách TOÀN VIỆT THI LỤC, một bộ tuyển thơ lớn nhất của người Việt ta cho đến cả ngày nay?

Bộ sách vĩ đại này, được tác giả dâng trình lên vua Lê, chúa Trịnh, và được chính quyền đương thời hết sức khen ngợi, ban thưởng lớn. Bộ sách tất nhiên được vua, chúa ban lệnh cho khắc in, lưu trữ vào thư khố quốc gia để bảo tồn và phổ biến, truyền lưu trong toàn quốc, cho đến tận ngày nay.

Như vậy, nhà thơ Trần Ích Tắc ở đời Trần, vẫn có quốc tịch Đại Việt đấy chứ? Chẳng phải là Chiêu Quốc Vương họ Trần đã hiển nhiên mang hai quốc tịch Đại Việt và Mông Nguyên đó sao? Chẳng phải là luật pháp Đại Việt đã rất rõ ràng đó sao? Đó chẳng phải là TÍN HIỆU QUAN TRỌNG NHẤT, để người đời sau phải tỉnh táo suy tư, để nhận biết sự thật về Trần Ích Tắc trong thấp thoáng huyền ảo, mà rất hiện thực đấy ư? Điều này, tưởng như ai cũng biết, mà chưa, hoặc không hề biết vậy!

Thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, một số nhà tình báo chiến lược cách mạng, như các ông Vũ Ngọc Nhạ, Đặng Trần Đức, Phạm Xuân Ẩn, Phạm Ngọc Thảo v.v…Chẳng phải là các ông ấy cũng mang hai quốc tịch VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ, và VIỆT NAM CỘNG HOÀ đó sao?

Do đó, về mặt lý thuyết hoàn toàn không thể chối cãi, rằng Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc, chính là một nhà tình báo chiến lược, đơn tuyến, được lãnh đạo nhà Trần giao phó, theo dõi, chỉ đạo và thường xuyên liên lạc đó sao?

2.

Nhà thơ Mỹ gốc Nga JOSEPH BRODSKY, giải Nobel văn học năm 1987 đã nói: “Để hiểu được một con người, một dân tộc từ ngàn năm trước, thì chỉ có thơ ca mới làm được điều đó mà thôi”!

Nhà bác học Lê Quý Đôn ở nước ta cũng đã nói: “Những việc chính sử ghi chép, cho dù là hoàn hảo đến mấy, cũng không thể hoàn toàn tin theo được”!… “Kẻ đọc sách có thể chỉ căn cứ vào văn, mà không xem xét đến thực tế được chăng?”.

Chúng tôi lấy câu nói của nhà thơ JOSEPH BRODSKY và nhà sử học Lê Quý Đôn, làm kim chỉ nam cho các nghiên cứu, giải mã hàng ngàn bài thơ chữ Hán của cha ông ta, suốt cả ngàn năm lịch sử. Và thực tế, chúng tôi đã căn cứ vào việc giải mã thơ ca, để dựng lên hình ảnh chân thực nhất về một số nhân vật lịch sử, một số tác giả, lấp đầy những khoảng trống, khoảng mờ, khoảng tối trong lịch sử dân tộc biết bao thăng trầm, dâu bể, mà các sách sử không thể làm được.

Trong thực tế, chúng tôi đã giải mã hàng ngàn bài thơ chữ Hán, chữ Nôm Đại Việt, đã dựng lại chân dung đích thực của các thi nhân trong quá khứ. Ví như Trương Hán Siêu, Nguyễn Trung Ngạn, Phạm Nhữ Dực và cả ông Tiến sĩ Nguyễn Vận Đồng, từng 3 lần đỗ đầu, mà chính sử không thấy chép một câu nào. Sách THƠ VĂN LÝ-TRẦN, do Viện Văn Học biên soạn, cũng chỉ chú thích rằng “chưa biết hành trạng của ông Nguyễn Vận Đồng”. Thế là sao? Là bởi ông Nguyễn Vận Đồng từng làm việc ở viện Hàn Lâm, sau ra làm Tri Phủ phủ Tân An. Một thời kỳ cuối Trần, Hồ, thuộc Minh rất hỗn loạn, nước ta không có sử quan. Sách vở của người Việt, đã bị giặc Minh tiêu huỷ hết. Qua việc giải mã thơ chữ Hán của ông Phạm Nhữ Dực, chúng ta mới biết rõ hành trạng của ông Nguyễn Vận Đồng và của chính danh nhân Phạm Nhữ Dực…

Đại thi hào Nguyễn Trãi, Thánh Thơ Cao Bá Quát cũng nằm trong trường hợp đó!


3.

Có ý kiến cho rằng, lấy thơ ca để giải mã chân dung nhân vật lịch sử, chỉ là nhận thức cảm tính, nhiều khi sai lệch, không thể lấy đó là điều có thể tin cậy được.

Điều này có phần đúng, nhưng cũng có phần chưa đúng, bởi mấy điểm sau:

Người xưa định nghĩa về thơ, rằng “Thi dĩ ngôn chí” (Thơ để diễn đạt, để trình bày cái chí của người quân tử chính danh), “Văn dĩ tải đạo” (Văn để chuyên chở cái đạo) của thánh hiền.

Các nhà Nho thi nhân đời trước làm thơ để nói cái chí của mình. Thơ có thể được khắc in, nếu nhà thơ có tiền và đương nhiên, phải được nhà vua cho phép. Các nhà Nho vốn nghèo, làm thơ để lưu lại cái chí của mình, cái tâm sự thầm kín của mình, cho con cháu trong nhà. Tác phẩm của các cụ được lưu giữ trong rương trong hòm, chứ đâu phải để đăng báo, để in sách dễ dàng như ngày nay? Vậy nên, tiếng lòng của thi nhân trong thơ đời xưa là hoàn toàn chân thực, khả tín.

Tiến trình tâm lý chẳng phải bắt đầu từ nhận thức cảm tính, rồi đến nhận thức lý tính đấy ư? Nếu thơ ca của Trần Ích Tắc chưa thể tin cậy được, thì xin hỏi rằng, các bài thơ TỤNG GIÁ HOÀN KINH SƯ (Hộ giá vua về kinh sư) của Thái sư Trần Quang Khải, THUẬT HOÀI của Phạm Ngũ Lão, BẠCH ĐẰNG GIANG PHÚ (Bài phú về sông Bạch Đằng) của Trương Hán Siêu v.v…đều không đáng tin cậy cả hay sao? Chả lẽ, quý vị làm sách giáo khoa lại đưa cái sự “chưa đáng tin” ấy vào nhà trường để cho con cháu chúng ta học tập hay sao?

Người đời sau, có thể từ thơ ca mà hình dung ra cốt cách, hành trạng tác giả, qua đó mà biết thêm được nhân tình, thế thái, liên quan đến lịch sử xã hội đương thời. Chỉ đến thời kỳ quân chủ chủ chuyên chế, Nho giáo mới có phần biến dạng và tha hoá, cho nên, mới có chuyện không đáng tin ở bài thơ này, hay bài thơ khác. Có thể không đáng tin ở nhân vật này, hay nhân vật khác.

Ngày nay, do sự hoà nhập của thế giới công nghiệp hoá, thế giới phẳng, số hoá, cho nên, nhân diện con người cũng thay đổi theo. Hay nói cách khác, con người tự tha hoá, hoặc tiến lên do những sản phẩm công nghệ của chính mình làm ra. Khi đàm đạo về thơ ca ngày nay, có bạn nói vui rằng, thơ ngày nay chủ yếu là “yêu đểu”, “khóc đểu”, “cười đểu” “khen đểu”… Con người “no ăn ấm cật”, có kẻ giàu sang thừa thãi trong nhung lụa, thì làm gì còn THƠ nữa? Điều này khác hẳn với thơ xưa, như các bậc tiền nhân nói: “Thơ có cùng mới hay”. Thi nhân đau đớn thật, cùng khốn thật, đói rách khổ nhục đến tận cùng, mới có thơ hay…Thơ Đỗ Phủ ở đời Đường bên Tàu, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Cao Bá Quát và nhiều tác giả khác ở Việt Nam là minh chứng sinh động cho điều đó…


4.

Về tính chân thực đến đâu của các bộ sách sử, cho dù là hoàn hảo đến đâu, cũng không thể hoàn toàn tin theo được, như Lê Quý Đôn đã nói. Chúng tôi hoàn toàn tán thành quan điểm này. Đơn giản vì ở nước ta, các sử quan thường “ăn cây nào rào cây ấy”. Những người chép sử, dạy sử đời sau thì cứ thế mà tin theo. Sự thật lịch sử bị họ làm cho méo mó, sai lệch, đôi khi đến mức tệ hại.

Ví dụ, sử quan triều Lê-Trịnh thì bôi xấu triều Mạc, xoá sạch những thành quả tốt đẹp về triều Mạc. Lại ví như sử quan triều Nguyễn thì xoá sạch những thành tựu vĩ đại của nhà Tây Sơn. Những giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể, những thành tựu chính trị tốt đẹp của triều trước, phần lớn đều bị triều đại tiếp theo phá sạch. Những hành vi hàm hồ vô lối, vô trách nhiệm với đất nước, với văn hoá, với lịch sử dân tộc, với người đời sau như vậy, khiến cháu con hoang mang, chả biết đâu mà lần.

Các bộ sách gọi là “chính sử”, còn có bao nhiêu phần trăm sự tin cậy? Chẳng phải là đáng buồn lắm hay sao? Thế nên, những tài liệu lịch sử, cho dù là hoàn hảo đến mấy, cũng không thể hoàn toàn tin theo được. Mà đã chưa tin, không tin, thì phải khảo cứu biện giải cho rõ ràng. Đó chính là thiên chức của những nhà nghiên cứu có trách nhiệm, có bản lĩnh đời sau vậy!

Và bởi vậy, thơ ca mới chính là nguồn tư liệu quan trọng nhất, đáng tin cậy nhất, để có thể dựng lên chân dung đích thực của lịch sử, của con người cá nhân, bản thể, bản ngã trong lịch sử.

Với nhân vật lịch sử Trần Ích Tắc ở triều Trần, cũng không là ngoại lệ.

5.

Một số bạn còn thắc mắc, rằng tại sao các vua Trần đời sau sao không thấy minh oan cho Trần Ích Tắc? Chúng tôi đã nói rồi, nhưng xin được nói rõ thêm.

Thứ nhất:

Những người lãnh đạo, tổ chức vụ trá hàng để đưa Trần Ích Tắc leo thật cao, chui thật sâu vào tầng lớp lãnh đạo Mông Nguyên, khởi đầu là Thượng hoàng Trần Thánh Tông, vua Trần Nhân Tông và Quốc Công Tiết Chế (Tổng Tư lệnh cuộc kháng chiến) Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Không thấy có văn bản nào ghi lại chi tiết này. Ai biết mà ghi? Ai được phép ghi chép bí mật quốc gia tuyệt đối này? Sử quan chỉ có thể ghi chép được “những điều trông thấy” mà thôi. Nhưng chúng ta có thể hình dung sự thật chắc chắn như vậy. Ngoài ra Trần Ích Tắc ra, không ai khác có thể đảm đương được nhiệm vụ cực kỳ quan trọng này.

Chiêu Quốc Vương trẻ tuổi, văn võ song toàn, lỗi lạc. Ở cuộc kháng chiến chống Mông Nguyên lần thứ 2 (1285), ông đã được phong chức PHIÊU KỴ ĐẠI TƯỚNG QUÂN, trấn giữ tuyến phòng thủ thứ 2 ở đoạn Bạch Hạc cận kề Thăng Long. Trong khi đó, Trần Nhật Duật trấn giữ tuyến đầu ở phía Tây Bắc biên giới. Trần Ích Tắc còn đứng bên vua tham mưu tác chiến, trước khi ông “đào tẩu” sang Nguyên Mông, vào ngày 15-3-1285.

Để chuẩn bị chu đáo cho kế hoạch trá hàng, Trần Ích Tắc đã ngầm viết thư xin hàng gửi Hốt Tất Liệt, mấy lần, trước khi ông “đào tẩu” một cách ngoạn mục theo kịch bản phản gián. Do vậy, Trần Ích Tắc mới được Hốt Tất Liệt hoàn toàn tin tưởng ngay, bèn trao cho ông chức HỒ QUẢNG BÌNH CHƯƠNG CHÍNH SỰ. Nếu như đột ngột đem cả gia quyến chạy sang, dễ gì Hốt Tất Liệt đã tin, mà trao ngay cho ông trọng trách lớn?

Chức BÌNH CHƯƠNG CHÍNH SỰ là Tể tướng. Hàm Tể tướng, nhưng ông được kiêm giữ chức quản lý vùng đất Hồ Bắc, Hồ Nam và Lưỡng Quảng ngày nay (Hồ Quảng). Vùng đất này rất rộng lớn, phía nam sông Dương Tử, tiếp giáp nước Đại Việt ta. Gần như là cả vùng đất đai của nước Nam Việt ta thời Triệu Vũ Đế và nước Lĩnh Nam thời Hai Bà Trưng giành lại quyền tự chủ. Quả là một bước đệm thành công rất tuyệt vời. Nước Đại Việt nhỏ bé, đã ở ngay sau lưng vùng đất do Trần Ích Tắc quản lý.

Ngay như ở thời Trần, một số trường hợp quan chức cũng tương tự như vậy. Trương Hán Siêu, nguyên là học trò thầy Trần Ích Tắc, giữ chức vụ rất cao trong triều, nhưng cũng được kiêm giữ chức KINH LƯỢC SỨ LẠNG GIANG, quản lý vùng biên cương chiến lược phía Bắc. Tiếp đó là Nguyễn Trung Ngạn, cũng học trò cũ của Trần Ích Tắc, vẫn có chức quan rất lớn trong triều, nhưng ông cũng được cử kiêm giữ chức KINH LƯỢC SỨ LẠNG GIANG, tiếp nối Trương Hán Siêu đã cao tuổi.

Thời Lê Sơ, Nguyễn Trãi được minh oan, được vua Lê Thái Tông phục hồi các chức vụ, quyền ngang Tể tướng, nhưng ông vẫn được vua Thái Tông tin tưởng giao kiêm nhiệm thêm chức vụ quản lý quân dân hai đạo vùng Đông Bắc, một vùng biên cương chiến lược cực kỳ quan yếu của đất nước ở vùng Đông Bắc.

Như vậy là Trần Ích Tắc đã làm chủ được một vùng đất rộng lớn, rộng gấp mấy lần nước Đại Việt nhỏ bé. Với chức Tể tướng (BÌNH CHƯƠNG CHÍNH SỰ), Trần Ích Tắc đã có quan hệ thân thiết với các ông HÀ NAM VƯƠNG, với ông Thái sư NGUYÊN PHỤC SƠ, tức Nguyên Minh Thiện (1269-1322) và với cả các quan chức triều đình Mông Nguyên, bao gồm những tinh hoa của các nước chư hầu như Triều Tiên, Nhật Bản, Miến Điện, Nga và cả những quan chức người nước Tống bị người Mông Cổ tiêu diệt và thống trị. Thân phận của họ, chẳng qua cũng chỉ là kẻ nô lệ, vì miếng cơm manh áo mà phải cúi đầu nhục nhã trước Mông Cổ mà thôi.

Tuy nhiên, Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc chỉ xem mình như một vị sứ thần nước Đại Việt, hiện đang có mặt ở triều đình Mông Nguyên. Thơ của ông đã thể hiện rất rõ các mối quan hệ nói trên.

Thơ Trần Ích Tắc có những bài thể hiện tấm lòng biết ơn chân thành của của ông, của nước Đại Việt ta đối với vua Thiết Mộc Nhi (cháu nội Hốt Tất liệt). Là sao? Là bởi vì trong quá trình làm quan với chức BÌNH CHƯƠNG CHÍNH SỰ, Chiêu Quốc Vương thường về Đại Đô (Bắc Kinh) “hầu hạ” vua Nguyên như một vị quan đại thần được Hốt Tất Liệt sủng ái. Ông đã có tác động tâm lý khôn khéo như thế nào đó, theo kiểu mưa dầm thấm lâu, để đến khi đăng quang ngôi Hoàng Đế, Nguyên Thánh Tông (Thiết Mộc Nhi) đã lập tức ban chiếu bãi binh, chấm dứt cuộc xâm lăng lần thứ tư của Mông Nguyên xuống đại Việt ta.

Các vị quan trong triều, phần đông là người Triều Tiên, Nhật Bản, Miến Điện và người Tống, họ đã rất vui vẻ chúc mừng ngài Trần Ích Tắc. Thơ Trần Ích Tắc đã thể hiện rất rõ điều đó.

Chiêu Quốc Vương có một số bài thơ thể hiện niềm vui tột đỉnh của ông, khi vua mới Thiết Mộc Nhi đăng quang và đồng thời ban chiếu bãi binh, chấm dứt cuộc xâm lăng của Hốt Tất Liệt xuống Đại Việt. Sau khi nghe chiếu bãi binh, Trần Ích Tắc từ Đại Đô (Bắc Kinh) lập tức phi ngựa về Vũ Xương (Vũ Hán), chắc là phủ đệ của ông. Lòng ông vui sướng đến tột đỉnh như thế nào. Thơ ông đã thể hiện rất rõ tâm trạng đó.

Toàn bộ 15 bài thơ của Trần Ích Tắc, đối chiếu với sự thật lịch sử đã diễn ra, là rất phù hợp với thực tế lịch sử, hoàn toàn có thể khiến chúng ta hình dung ra từng bước đi trong hoạt động thâm nhập sâu vào nội bộ triều đình Mông Nguyên.

Người đọc thơ, phải nhận ra điều gì đó “bất thường”, mà lại rất bình thường ở đây chứ?

Một vụ tổ chức tình báo chiến lược vô cùng tinh vi, hoàn hảo. Nhờ vậy, Đại Việt đã đánh thắng Mông Nguyên một cách khá thuận lợi, dẽ dàng, ở cuộc xâm lăng của chúng lần thứ 3 (1288).

Các vua Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông và Hưng Đạo Đại Vương, Thái sư Trần Quang Khải, Hưng Ninh Vương Trần Tung, những người tổ chức và chỉ đạo vụ tình báo chiến lược Trần Ích Tắc, rồi cũng lần lượt ra đi, mang theo những điều bí mật tuyệt đối xuống cửu tuyền. Các vua đời sau, đương nhiên là không thể biết những huyền cơ tuyệt mật quốc gia đó.

Vả chăng, đây là kế hoạch đưa một bộ phận tinh hoa của người Đại Việt trở về quê cũ của mình, để đánh địch từ xa, từ ngay trong lòng địch, từ chính quê hương cũ của mình. Cuộc chiến với Mông Nguyên, không phải chỉ diễn ra một lần, hai lần, ba lần, bốn lần và có thể 5 lần, nếu triều đại Mông Nguyên không tan rã. Ai có thể minh oan cho Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc được nhỉ?

Tuy nhiên, các vị vua Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông và Hưng Đạo Dại Vương và ngay cả Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc cũng đã để lại những di ngôn bằng thơ ca, những tín hiệu cần thiết, vô cùng quan trọng, để người đời sau như chúng ta có thể rửa oan cho Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc, người anh hùng vĩ đại của dân tộc ta!

6.

Sách ĐVSKTT chép rằng, ngày 15-3-1258, Trần Ích Tắc đem cả gia quyến bỏ nước chạy sang hàng nhà Nguyên. Đó là sự thật trông thấy, rất rõ ràng. Sử quan có thể ghi chép sự thật đó, nhưng họ không thể ghi chép được hình bóng phía sau sự thật đó. Hãy nghĩ mà xem, tại sao triều đình không bố trí quân mai phục ở biên giới, để chặn đánh và giết chết Trần Ích Tắc?

Ích Tắc mang theo cả gia quyến và tuỳ tùng đông đúc, xe pháo ngựa nghẽo kênh càng, tại sao lại dễ dàng “đào tẩu” một cách ngoạn mục đến thế? Trong khi, trước đó, ở trong nước cũng đã có một số vương hầu đã đầu hàng quân Nguyên. Chương Hiến Hầu Trần Kiện (con Trần Quốc Khang) trấn giữ thành Nghệ An, do không có ai ứng cứu, nên cũng phải đầu hàng trước sức tấn công dữ dội của Mông Nguyên. Trần Kiện mang theo gia quyến và tuỳ tùng chạy đến biên giới thì bị tướng Nguyễn Địa Lô phục binh dùng tên độc bắn chết. Lê Tắc (gia thần của Trần Kiện) đã phải vác xác Trần Kiện chạy sang bên kia biên giới để chôn.

Đoàn người cùng Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc chạy sang hàng Mông Nguyên có thể cả trăm, vài trăm người, lại quan trọng, nghiêm trọng hơn Trần Kiện rất nhiều, sao không bị phục binh quân Trần chặn đánh ở biên giới? Người đời sau chẳng lẽ lại không nghĩ đến cái điều “hết sức vô lý”, mà lại rất hợp lý này hay sao? Đó có phải là sự “ngẫu nhiên” hay không? Tôi xin nhắc lại rằng, chuyện Trần Ích Tắc “bỏ trốn”, đã nằm trong kịch bản rất chu đáo của lãnh đạo triều Trần. Rất dễ hiểu!

B

1.

Như chúng tôi đã nói ở mấy bài khác, có thể hình dung ra nhiệm vụ chiến lược của Trần Ích Tắc, gồm hai mũi tiến công: Chính trị và quân sự. Về chính trị, Trần Ích Tắc hoạt động đơn tuyến, tác động tâm lý vào các đối tượng quan chức triều đình Mông Nguyên. Đội ngũ đại quan triều đình Hốt Tất Liệt là tinh hoa của các nước chư hầu, rất ô hợp. Không thể hình dung cụ thể Trần Ích Tắc đã khôn khéo ngoại giao thế nào đó, khiến quan chức các nước chư hầu thấy rõ thân phận nô lệ của họ, chán ghét chế độ thống trị độc tài của Hốt Tất Liệt. Cũng không thể biết rằng Trần Ích Tắc đã tác động đến tâm lý Thiết Mộc Nhi (Nguyên Thánh Tông) như thế nào, ngay từ khi ông này còn ở ngôi Đông cung Thái tử. Chỉ biết rằng, đến khi đăng quang ngôi Hoàng Đế triều Mông Nguyên, Thiết Mộc Nhi đã ngay lập tức ban chiếu bãi binh, chấm dứt cuộc xâm lăng của Mông Cổ xuống Đại Việt. Chiến công thầm lặng vĩ đại của Trần Ích, đương thời ai biết? Nhưng thơ của Trần Ích Tắc đã cho chúng ta thấy rõ điều đó.

Về quân sự, Trần Ích Tắc đã chỉ đạo cho người con trai của ông là Trần Hữu Lượng âm thầm xay dựng lực lượng quân đội, lên tới hơn 65 vạn quân tinh nhuệ. Hạm đội lớn gồm cả ngàn chiến thuyền lớn nhỏ.

Sách ĐVSKTT chép việc Trần Hữu Lượng đã ba lần sai sứ về Đại Việt, yêu cầu Trần Dụ Tông giúp sức đánh Mông Nguyên, nhưng Dụ Tông từ chối. Chỉ đến lần thứ 3, Dụ Tông mới sai KINH LƯỢC SỨ LẠNG GIANG Nguyễn Trung Ngạn đem theo một đội quân nhỏ, sang bên kia biên giới để nghe ngóng tình hình chiến sự thế nào.

Bài thơ VĨNH BÌNH TRẠI SƠ PHÁT (Mới ra khỏi trại Vĩnh Bình), thơ Nguyễn Trung Ngạn có câu:

Gió ù ù thổi, ngọn cờ nhà Hán phấp phới lướt dạt ngọn cỏ,

Nghe tiếng ngựa rợ Hồ kêu, khiến lòng rùng rợn, mà cung đao đeo bên mình (họ) dường như phát tiếng kêu.

Thơ đã thể hiện một cách chân thực nhất hình ảnh cuộc chiến đấu của Trần Hữu Lượng, xưng Hán Đế, quốc hiệu Đại Hán, giương cờ Hán đánh nhau với Mông Nguyên…

Có người bảo rằng thời Trần Dụ Tông, Đại Việt còn đang mạnh. Mạnh như thế nào nhỉ? Nhà nước kiệt quệ, đến mức Trần Dụ Tông phải bán tước cho nhà giàu, lấy lương thực, tiền bạc cung ứng cho triều đình. Nông dân nổi lên khởi nghĩa khắp nơi, tiêu biểu nhất là khởi nghĩa Ngô Bệ ở Yên Phụ. Tham quan tha hồ vơ vét của dân. Đến nỗi, Thầy Chu Văn An khuyên Dụ Tông không nghe, ông bèn treo mũ từ quan. Vua Dụ Tông ăn chơi sa đoạ, chỉ thích chơi chim, chơi cây cảnh, gái gú lu bù. Đất nước như vậy, triều đình như vậy, vua như vậy, lại là “đang mạnh” hay sao? Trong khi đó, ở phương Nam, Chiêm Thành đang trỗi dậy. Họ đã ba lần đem quấn tấn công Đại Việt. Nếu không là suy yếu, thì Chiêm Thành dám tấn công Đại Việt được sao? Thêm nữa, nên biết rằng, Trần Hữu Lượng chiến đấu với quân Mông Nguyên ở phía Bắc, chẳng phải là để che chắn cho Đại Việt được yên ổn đó sao? Chiến lược đánh giặc ngay trên đất giặc, ngay trong lòng địch, để bảo vệ Đại Việt ở phía sau, như lãnh đạo nhà Trần đã giao cho Trần Ích Tắc. Chẳng phải là ở bài thơ XUẤT QUỐC, chính Trần Ích Tắc đã nói rằng, việc ông phải bỏ nước ra đi, là để làm cái việc như ngài Cơ Tử, làm cho nhà Ân còn mãi đó sao? Chẳng phải là để cho Đại Việt còn mãi đó sao? Đâu phải như Tấn Văn Công (tức công tử Trùng Nhĩ), bỏ nước ra đi để nhờ thế lực ngoại bang, lại trở về làm vua nước Tấn?

Vua Dụ Tông (Trần Hạo) nhờ có Trần Hữu Lượng đánh giặc ở bên kia biên giới, mà ông được thảnh thơi ăn chơi, hưởng lạc. Ông ta cũng không thể biết rằng tại sao Đại Việt lại được yên ổn như thế, huống chi là kẻ đọc sách đời sau, chỉ biết đọc mà không biết suy xét thực tế như thế nào?

Lịch sử đã diễn ra như vậy. Thơ Trần Ích Tắc đã thể hiện chân thực nhất tâm trạng của ông, tấm lòng son sắt của ông với non sông đất nước Đại Việt.

Có người cho rằng, nhân vật Trần Hữu Lượng còn có một số văn bản khác nói rằng ông ấy là người Hán, tức không phải con trai Trần Ích Tắc. Xin thưa với các bạn rằng, những sách gọi là nguy thư (sách dối trá) do người Tàu tung ra rất nhiều, cốt làm rối loạn dư luận. Họ thực hiện cuộc chiến tranh tâm lý vô cùng tinh vi và ác độc. Những thứ sách dối trá đó (nguỵ thư) được viết rất khéo, như thật, khiến người Việt đọc nhiều mà không biết rằng mình đã ăn phải bả lừa dối của họ. Chiêu này thì họ đã làm từ xửa xưa rồi. Nó đánh vào niềm tin của dân ta, đến mức chẳng còn biết thực hư thế nào, chẳng còn biết cha ông mình là ai! Và họ cũng đã thành công, rất thành công. Đến mức ngày nay, một số trí thức người Việt lại là những người dẫn đầu tuyên truyền cho chiến lược chiến tranh tâm lý vô cùng tinh vi, ác độc của người Tàu.

Thử hỏi, chúng ta tin vào những thông tin giả dối, hay tin vào chính sử nước ta, tức sách ĐVSKTT? Ấy là chỉ nói chi tiết sách ĐVSKTT chép rằng Trần Hữu Lượng chính là con trai của Trần Ích Tắc?

Chúng ta không thể biết Trần Ích Tắc đã hành động cụ thể như thế nào, khôn khéo trong ngoại giao với đối thủ như thế nào, nhưng từ thơ ông, từ thực tế lịch sử đã diễn ra, kết nối với thơ ca đương thời, như thơ Nguyễn Trung Ngạn và một số tác giả đời sau khi đi sứ sang Tàu, đã giúp chúng ta dựng lên chân dung đích thực của Trần Ích Tắc, với tư cách là một nhà tình báo chiến lược thiên tài, đơn tuyến. Hơn thế, ông là người anh hùng dân tộc vĩ đại của Đại Việt ta, mà các loại nguỵ thư bên Tàu thường xuyên tạc, cố tình cố ý hạ thấp vai trò của cha con Trần Ích Tắc-Trần Hữu Lượng, trong sự nghiệp làm tan rã giặc Mông Nguyên, ngay trên đất của chúng ta thời Triệu Vũ Đế và Hai Bà Trưng từng làm chủ.

Nhà thơ Mỹ gốc Nga, giải Nobel văn chương năm 1987 đã nói: “Để hiểu biết về một con người, một dân tộc từ ngàn năm trước, thì chỉ có thi ca mới làm được điều đó mà thôi”!

2.

Có bạn còn thắc mắc, rằng tại sao vua Trần phải hỏi Hưng Đạo Vương năm nay đánh giặc thế nào? Chả là, sử ta (ĐVSKTT) chép, vua Trần hỏi rằng năm nay thế giặc thế nào? Hưng Đạo Đại Vương trả lời: “Năm nay đánh giặc nhàn”. Có bản dịch: “Năm nay thế giặc dễ phá”!

Thưa rằng, sở dĩ như vậy, là bởi vì Hưng Đạo Đại Vương được triều đình tin tưởng tài năng xuất chúng của ông, trao cho ông chức “Quốc Công Tiết Chế”, tức Tổng Tư lệnh các lực lượng kháng chiến toàn quốc. Cho nên, tin tức tình báo do Trần Ích Tắc sai giao liên đặc biệt chuyển ngay cho Trần Quốc Tuấn. Từ kế hoạch tấn công của Hốt Tất Liệt đã có trong tay, lập tức Quốc Công Tiết Chế phải cùng bộ tham mưu lên kế hoạch chủ động đối phó với 50 vạn quân Mông Nguyên. Sau đó, tất nhiên, theo lễ, Hưng Đạo Đại Vương phải về Thăng Long trình bày kế hoạch tác chiến với hai vua (Nhị thánh). Việc vua hỏi Hưng Đạo Đại Vương “Thế giặc năm nay thế nào”, là vì lẽ ấy!

Thêm nữa, phủ đệ của Hưng Đạo Đại Vương đóng ở An Bang, do đó việc đưa tin cho Hưng Đạo Đại Vương gần hơn, thuận tiện hơn…

3.

Trần Ích Tắc là tên cha mẹ ông đặt cho, với nghĩa “Ích Tắc” là người sẽ đem lại lợi ích cho xã tắc. Chính vua cha Trần Thái Tông và mẹ ông là bà Vũ Phi (Vũ Thị Vượng) đặt tên cho Ích Tắc, với kỳ vọng lớn về đứa con thông minh tuyệt vời, sau này sẽ giúp ích rất nhiều cho đất nước. Ông đã sống, chiến đấu ngay trong lòng địch, như một người anh hùng thầm lặng, chiến công vĩ đại.

Thời trẻ, Trần Ích Tắc đã có phủ đệ riêng của mình. Ông đã mở trường tư thục bên cạnh Quốc Tử Giám. Ông dạy dỗ học trò nghèo miễn phí, bao cấp từ đầu chí cuối. Học trò ông đều đỗ đạt cao, là những trọng thần trụ cột của của triều đình, những thi sĩ lớn, những nhà văn hoá lớn, như các ông Trạng Nguyên Mạc Đĩnh Chi, Hoàng Giáp Nguyễn Trung Ngạn, danh sĩ như Trương Hán Siêu, Bùi Phóng v.v…

Chiêu Quốc Vương là một nhà văn hoá nổi bật nhất của đất nước. Ông cũng là một nhà giáo đầu tiên mở cơ chế mới cho giáo dục. Ngày nay cơ chế mở trường tư thục trong giáo dục chính là sự tiếp nối sự nghiệp của Chiêu Quốc Vương đấy! Có thể nói không ngoa rằng, Trần Ích Tắc là một nhà giáo vĩ đại.

Nếu bảo Trần Ích Tắc là kẻ bán nước cầu vinh, vì lợi ích nhỏ mà quên Tổ quốc, thì tại sao các học trò của ông vẫn ngang nhiên, đàng hoàng ngồi trên ghế những bậc đại thần trụ cột của triều đình? Chẳng phải là vô lý lắm hay sao? Thầy phản quốc, tại sao trò vẫn không bị trừng trị theo thầy? Luật pháp thời xưa, trò là sản phẩm giáo dục của thầy. Nếu thầy bị kết tội “tru di cửu tộc”, thì học trò là một trong chín họ phải bị “tru di”…

Thầy Nguyễn Trãi ở thời Lê Sơ, bị bọn gian thần kết tội “tru di tam tộc”, tức phải giết cả ba họ. Học trò Nguyễn Trãi làm quan trong triều rất nhiều. Thơ Nguyễn Trãi cả Hán và Nôm, đều có nói đến việc Nguyễn Trãi khuyên học trò ông phải biết thương yêu nhau thế nào, phải liêm chính như thế nào. Áy vậy, khi Nguyễn Trãi bị khép tội “tru di”, học trò thầy Ức Trai biến đi đâu mất tiêu cả. Không có ai dám để lại một bài thơ nào viết về thầy Nguyễn Trãi cả?

4.

Tại sao vua Trần Thánh Tông không xoá danh tính họ Trần của Trần Ích Tắc? Không thể xóa bỏ danh tính họ Trần của Chiêu Quốc Vương được! Chỉ tạm gọi là “Ả Trần”, tức người họ Trần, nhưng hèn nhát yếu đuối như đàn bà. Chẳng phải đó là tín hiệu để đời sau có trách nhiệm làm rõ hành trạng của Chiêu Quốc Vương hay sao? Ông vẫn có danh tính họ Trần. Thơ ông vẫn được Lê Quý Đôn tuyển đưa vào bộ sách TOÀN VIỆT THI LỤC đó sao?

5.

Khi Hốt Tất Liệt sai Thoát Hoan là tổng Tư lệnh, đem 50 vạn quân thuỷ bộ tấn công Đại Việt lần thứ 3 (1288), Trần Ích Tắc được Thoát Hoan đưa về nước, làm AN NAM QUỐC VƯƠNG. Ở bài thơ HỒI QUỐC (Về nước), Trần Ích Tắc chỉ nói rằng ông “theo chân ngựa chiến trở về thăm lại quê hương”. Nhà Trần rời bỏ Thăng Long theo chiến thuật “vườn không nhà trống”, còn gọi là kế “thanh dã”. Tràn Ích Tắc ung dung theo chân ngựa chiến về thăm lại quê hương, là bởi ông tin tưởng chắc chắn rằng Hưng Đạo Đại Vương đã có kế sách đánh thằng giặc Mông nguyên.

Quân Trần không bố trí chặn đánh đội quân do Thoát Hoan dẫn đầu, có Trần Ích Tắc đi theo. Thực sự là có quấy nhiễu một tý cho nó có vẻ “yếu ớt”. Chiến thuật ấy, nếu nhìn tinh, thì sẽ thấy quân Trần có chủ định. Hưng Đạo Vương chỉ sai tướng người Tày là Nguyễn Thế Lộc chặn đánh quyết liệt đội quân do hai tên hàng tướng người Việt là Lê Tắc và Lê An chỉ huy. Đánh quyết liệt, những vẫn để ngỏ hướng Bắc. Thế là sao? Là để bảo toàn cho tính mạng cha con Trần Ích Tắc, được trở về phủ Tư Minh bên kia biên giới đúng vào ngày Nguyên Đán, năm 1288. Đó là sự “ngẫu nhiên” hay sao?

Thực ra, kế hoạch tấn công ba mũi của Hốt Tất Liệt, đã được Trần Ích Tắc thâu tóm, chuyển gấp về cho Hưng Đạo Đại Vương. Quốc Công Tiết Chế lập tức xây dựng phương án tác chiến, chống lại 50 vạn quân Nguyên hùng mạnh. Việc Hưng Ninh Vương Trần Tung trá hàng, xâm nhập vào doanh trại của chủ tướng thoát Hoan, rồi ngay đêm đó, ông đem quân tinh nhuệ biệt kích vào doanh trại Thoát Hoan, khiến hắn bất ngờ, chạy tan tác về bên kia biên giới. Còn đạo quân thuỷ, do Ô Mã Nhi chỉ huy, thì tháo chạy theo sông Bạch Đằng, bị quân Trần chặn đánh, tiêu diệt hoàn toàn.

Ngày nay, ở Uông Bí, Đông Triều, ở sông Bạch Đằng vẫn còn dấu tích những bãi cọc gỗ được chôn xuống lòng sông. Còn đó những con sông, những vị trí quân Đại Việt chặt gỗ thả xuôi sông trôi về vị trí tập kết. Việc chặt gỗ đóng cọc tưởng dâu dễ dàng? Hưng Đạo Vương phải sai quân dân vùng Quảng Ninh thi hành việc đốn cây, vận chuyển gỗ, rồi thao tác đóng cọc gỗ như thế nào, nó như một chiến tích, một kỳ tích thật kinh hoàng đấy! Nó không phải chỉ diễn ra trong vài ba tháng, mà có thể cả năm trời chuẩn bị mới thành công.

Do vậy, nếu không có được thông tin tình báo do Trần Ích Tắc chuyển về từ trước, thì sao có được sự chuẩn bị chu đáo đến thế? Thì sao Hưng Đạo Vương lại tự tin nói với vua rằng, “năm nay đánh giặc nhàn”? Chả lẽ đó lại là sự “ngẫu nhiên” chẳng?

Kẻ làm tướng, theo binh pháp tối thiểu là “Biết địch biết ta, trăm trận trăm thắng”!

Nếu không biết Hốt Tất Liệt chuẩn bị kế hoạch tấn công Đại Việt như thế nào, sao Hưng Đạo Vương lại có thể tự tin chiến thắng đến vậy”?

Nếu không biết sự mạnh sự yếu của quân Mông Cổ, thì tại sao Thống soái Trần Thủ Độ lại có thể bình tĩnh nói với vua trẻ Trần Cảnh rằng: “Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo”! Biết địch biết ta, tự tin chiến thắng trước quân Mông Cổ vó ngựa từng dẫm nát cả Á, Âu, làm sao Thái sư Trần Thủ Độ lại có thể tự tin nắm chắc phần thắng được?

C

Chúng tôi đã dùng phương pháp luận nghiên cứu liên ngành, liên văn bản, từ thơ ca của Trần Ích Tắc để lại, đối chiếu với sự thật lịch sử đã diễn ra, để hướng tới một cái nhìn mới, hoàn toàn có cơ sở khoa học. Gạt bỏ những sách vở thuộc loại nguỵ thư của đối phương và những “phán quyết” vô lý của của người Việt ta qua nhiều đời, thẳng thắn vén lên bức màn huyền bí của lịch sử, để chứng minh rằng, Chiêu Quốc Vương chính là một nhà tình báo chiến lược thiên tài.

Con người thật, con người “có ích cho xã tắc” như tên ông, vì sự tồn vong của nhà Trần và đất nước mà phải tạm thời hy sinh danh dự cá nhân. Ông đã tự biến thành một con người khác, con người thứ hai, vô cùng thương cảm. Bài thơ QUÂN TRUNG ĐIỆU VONG (Viếng người chết trong quân), chính ông tự cho rằng cái danh dự Chiêu Quốc Vương của ông xem như đã chết từ nay, từ lúc “Xuất Quốc” rồi.

Trần Ích Tắc chỉ tự xem mình là một vị sứ thần của Đại Việt ở triều Mông Nguyên. Ông vui mừng như chưa bao giờ được vui đến thế, khi được dự yến vua ban, được nghe chiếu bãi binh của Thiết Mộc Nhi (Nguyên Thánh Tông). Người không hiểu thơ ông thì cho rằng đó là những hành vi nịnh hót của kẻ đầu hàng bán nước. Không hiểu, nên không biết, mà phán quyết sai, đó cũng là lẽ thường.

Không hiểu thơ của Trần Ích Tắc, sao biêt được điều này? Ông muốn làm con chim én bay nhanh về báo tin vui cho những người anh em ở quê nhà cái tin Đại Việt đã thoát khỏi cuộc xâm lăng lần thứ 4 của quân Nguyên, mà Hốt Tất Liệt đã chuẩn bị sẵn kế hoạch rất chu đáo, từ năm 1293. Ông ta sẽ dốc cả binh lực chín châu xuống làm cỏ Đại Việt. Thật may là ông ta chết mấy tháng sau (1294).

Chiêu Quốc Vương hoạt động cụ thể ra sao, khôn khéo đến mức nào, ai biết? Nhưng thơ của Trần Ích Tắc đã cho chúng ta thấy đấy! Thơ ông là di ngôn cực kỳ quan trọng, để đời sau biết sự thật về ông. Chiêu Quốc Vương chỉ biết một mình tâm sự với chính mình. Khi vui, lúc buồn. Ông vô cùng cô đơn giữa triều đình Mông Nguyên rất đông người “tứ chiếng”. Ông tự chúc thọ mình khi ông được hưởng thọ sáu mươi tuổi.

Hãy đọc thơ ông, chúng tôi đã bình giải kỹ càng. Không có thơ của Trần Ích Tắc để lại và nếu không giải mã được những bí ẩn trong những bài thơ của ông, thì thật khó chiêu tuyết cho ông một các thuyết phục được! Đấy là chưa nói, Chiêu Quốc Vương Ích Tắc là một hoạ sĩ kỳ tài, khi ông đã vẽ chân dung một số vị quân vương nhà Nguyên, tặng họ, như một kiểu ngoại giao “mềm”. Những kiệt tác ấy, hiện còn lưu giữ ở bảo tàng phương Bắc, như những bảo vật vô giá của văn hoá nhân loại…

Cụ Hoàng Đức Lương, một vị danh Nho đời Hậu Lê viết trong lời tựa cho cuốn sách TRÍCH DIÊM THI TẬP, có đoạn: “Thơ là màu sắc ở ngoài màu sắc, mắt thường không thấy được; là mùi vị ở ngoài mùi vị, miệng thường không nếm được; chỉ có thi nhân mới có thể thưởng thức được mà thôi!”…

Hà Nội 10-10-2024

V.B.L