Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

MẤY CHUYỆN VẠ BÚT

Nguyễn Ngọc Dương
Thứ ba ngày 23 tháng 6 năm 2020 10:00 AM

(Bài viết từ năm 2012, đăng lần đầu trên Website trannhuong.com. Vừa rồi trong Tọa đàm 95 năm ngày Báo chí cách mạng VN của Chi hội Tạp chí Văn nghệ, có đại biểu nhắc đến những “sự cố” trong bài này như những ví dụ cho “cái khó” trong nghề viết. Nay xin đăng lại ngõ hầu các bạn như những kỷ niệm vui)
Sự cố văn chương – “vạ bút” xưa nay không hiếm. Thời sự nhất là gần đây, có bài thơ nhan đề “Lời những cây dầu cổ thụ ở trụ sở ủy ban nhân dân” của nhà thơ Đàm Chu Văn, phó chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật Đồng Nai bị “Cấm đi khỏi... nơi cư trú”. Có người gọi là “Bài thơ bị cầm tù”. Nói thế nghĩa là những chuyện tôi sắp nhắc lại dưới đây trong lịch sử Văn học nghệ thuật (VHNT) tỉnh, cũng chỉ là “chuyện vặt”, nói cho vui, không có ý phê bình, trách móc ai vì đó là những kỷ niệm đã thuộc về quá khứ.
Năm 1976, nhà thơ Lò Ngân Sủn có bài thơ “Người Dân tộc nói” đăng trên tạp chí Văn nghệ tỉnh trong đó có câu: “Người dân tộc nói / No tai mà đói cái bụng / cũng như có sấm mà không có mưa”.
Một người trong cơ quan chuyên trách Hội VHNT (không phải đảng viên CS) lên báo cáo với Thường trực tỉnh ủy đại ý: Bài thơ này của đảng viên Lò Ngân Sủn có ý chống Đảng, ám chỉ Tỉnh ủy là, chỉ nói nhiều mà không làm được gì cho dân. Lò Ngân Sủn khi được tin Tỉnh ủy “xem xét” bài thơ của mình và có người nói bài thơ “chống Đảng” thì ông rất hoang mang. Nhưng may là được ông Trưởng Ban Tuyên giáo lúc ấy lập luận rằng, không có vấn đề gì, đấy cũng chỉ là cách nói của đồng bào dân tộc thôi... Thế là nhà thơ Lò Ngân Sủn thoát nạn.
Năm 1992, tạp chí Văn nghệ tỉnh đăng bài thơ “Thế hệ tôi mơ ước đến mùa xuân” của nhà thơ Pờ Sảo Mìn. Sau khoảng một năm, chẳng hiểu thế nào đến tai Bí thư tỉnh ủy. Lúc ấy tôi đang công tác ở một ban cơ quan này, hàng ngày thường lên hút thuốc lào với Bí thư. Vì là hội viên Hội VHNT, nên một hôm được Bí thư tiết lộ: “Cái tay PSM vừa rồi làm bài thơ “Thế hệ tôi mơ ước đến mùa xuân” đăng Tạp chí Văn nghệ tỉnh. Bài thơ thể hiện rõ quan điểm thù địch, không tin vào chế độ XHCN. Vì thế cho nên hắn còn mơ ước đến một mùa xuân nào nữa? Hay là mơ ước để lật đổ chế độ này? Rõ ràng là một bài thơ phản động!...”.
Tôi chỉ nhẹ nhàng khuyên giải: “Chắc không phải đâu anh ạ. Văn thơ nó trừu tượng, nhiều khi nghĩ ra cái gì thì nó ra cái đó, anh cũng nên cho qua đi.”. Sau đó tôi thấy ở một số cơ quan trong hệ thống tư tưởng của tỉnh có rỉ rả, bàn tán một thời gian. Nhưng có lẽ trong bối cảnh tỉnh vừa mới chia tách, việc lo tập kết các cơ quan, xây dựng lại thị xã tỉnh lỵ... cứ rối bù lên, nên sự cố bài thơ “Thế hệ tôi mơ ước đến mùa xuân” dần dần được quên lãng. Sau này chỉ còn lại giai thoại.
Nhưng Pờ Sảo Mìn cũng một thời bị nhiều người trong giới chính khách “để ý” và tỏ ra không thích. Tôi đi công tác ở MK, lần nào cũng xin phép Bí thư huyện ủy xuống thăm Nhà thơ. Nể, không can ngăn, nhưng các vị cũng có vẻ không hài lòng. Lúc ấy ở huyện ít người biết đến Pờ Sảo Mìn, có người biết cũng chỉ thấy một Pờ Sảo Mìn là người Pa Dí, nhỏ thó, hom hem, lấm láp, một anh chàng chăn ngựa, cắt cỏ cá...Thế thôi.
Ở tỉnh thì tên tuổi Pờ Sảo Mìn được anh em trong giới văn nghệ “tâm phục, khẩu phục” bởi tài năng thơ ca của ông, một giọng thơ độc đáo của người Pa Dí. Nhưng giới chính khách chẳng mấy ai quan tâm. Ở Hội Nhà văn Việt Nam, trên thi đàn quốc gia thì Pờ Sảo Mìn lại nổi như cồn với những tập thơ “Cây hai ngàn lá”, “Con trai người Pa Dí” “Cây ống khói”, “Cung đàn mùa xuân”... của ông. Thế mới biết, để hiểu một con người không thể nhìn cái vẻ bề ngoài…
Khoảng thập niên 90, đạo Tin lành tự phát du nhập vào một số vùng đồng bào Mông trong tỉnh. Những người trong giới lãnh đạo “có tinh thần cảnh giác cao” thì lo sợ các thế lực thù địch, phản động ẩn nấp ở đâu đó lợi dụng tôn giáo làm mất ổn định an ninh chính trị.
Nhưng dưới con mắt nhà văn, nhìn thấy một trong những nguyên nhân chính, không phải do thế lực thù địch, mà là do đời sống đồng bào còn nhiều khó khăn, lãnh đạo, cán bộ địa phương chưa thực sự quan tâm đến cuộc sống thiết thân của đồng bào, nhà văn Đoàn Hữu Nam đã có bài bút ký dự thi: “Xào xạc những cánh rừng…” trên báo Tiền Phong. Bài ký lại kết bằng câu thơ của Lò Ngân Sủn: “Người dân tộc nói / no tai mà đói cái bụng / cũng như có sấm mà không có mưa.”
Một ông “thày dùi” nào đó lại tố lên Bí thư tỉnh ủy. Thế là Bí thư chỉ đạo Ban Tuyên giáo phải kiểm điểm tác giả. Nhưng để tránh tiếng “khắt khe”, thiếu lý lẽ, Bí thư có vẻ không quan tâm đến mấy câu thơ trên mà chỉ yêu cầu làm rõ con số 12.000 người theo đạo, tại sao tác giả lại viết 120.000? (Thêm một con số 0, do biên tập tờ báo đánh máy nhầm!). Bí thư bảo: “Nếu vậy thì tính cả mấy đồng chí là người dân tộc trong Thường vụ cũng không đủ. Rõ ràng là anh này viết sai sự thật, vi phạm luật báo chí, bêu xấu Tỉnh ủy (!?)
Cuộc chỉ đạo kỷ luật nhà văn Đoàn Hữu Nam được tiến hành bài bản, đúng quy trình. Trong chi bộ có 5 đảng viên thì 4 người biểu quyết xử lý Nam bằng hình thức “Khiển trách”. Riêng ‘đương sự’ thì không tán thành hình thức đó mà tự nhận nặng hơn một bậc: “Cảnh cáo”! Chẳng lẽ nhà văn lại giống con lừa – ưa nặng!... Nhưng kết thúc, theo nguyên tắc tập trung dân chủ, thiểu số phục tùng đa số, nên Nghị quyết “Khiển trách”, kèm theo “hình phạt phụ” là “treo bút” 3 năm, không cho đăng tải mọi bài viết của Đoàn Hữu Nam.
Tuy nhiên, do điều kiện lúc ấy còn quá ít tác giả viết cho Tạp chí Văn nghệ của Hội, nên chỉ sau vài tháng đã thấy xuất hiện bài của Nam trên Tạp chí Văn nghệ, trên báo tỉnh, báo ngành trung ương mà cũng không thấy ai “nhắc nhở”.
Án kỷ luật của Nam vừa được công bố thì báo Tiền Phong thông báo danh sách trúng giải cuộc thi, trong đó có bài “Xào xạc những cánh rừng…”! Lập tức, Hội VHNT nhận được “trát” của thượng cấp là, đồng chí Nam không được nhận giải. Đồng thời, Ban Tuyên Giáo có công văn cho Tổng Biên Tập báo Tiền Phong là không trao giải cho tác giả này. Sau đó ít ngày, tôi có dịp đi công tác ở Hội Nhà Văn Việt Nam, có người cho biết, hôm trước Nam cũng xuống đây, rồi sang Báo Tiền Phong nhận giải “chui”!...Đúng là cười ra nước mắt!
Cũng thời kỳ này, tôi đang công tác ở một Ban tỉnh ủy lại kiêm Chủ tịch Hội VHNT. Làm lãnh đạo trong một cơ quan nếu được bảy, tám mươi phần trăm yêu mến, quý trọng là đã quá nhiều. Hai, ba mươi phần trăm không ưa là thường… Có người săn ve với tôi, đề nghị anh nói với lãnh đạo cấp trên cho tôi lên Chuyên viên chính. Tôi bảo, nguyện vọng của anh là chính đáng, nhưng nó có tiêu chuẩn rất cụ thể. Ngay bậc Chuyên viên thì ít nhất cũng phải có bằng đại học, mà anh chỉ có mỗi cái bằng Trung cấp chính trị, vì công tác lâu năm nên được xếp Chuyên viên là tốt rồi. Bây giờ tôi đề nghị cho anh lên Chuyên viên chính thì chắc khó, mà các anh lãnh đạo sẽ nghĩ tôi thế nào?...Không nhận ra lý lẽ chân tình của tôi, chắc anh ta ác cảm?... Hàng ngày, tôi thường chỉ tập trung cho công việc, không quan tâm những chuyện “râu ria”. Đó cũng là ‘thói xấu’ của tôi, cứ thẳng băng mà đi, không biết nhìn trước, ngó sau, cảnh giác, đề phòng nội bộ “rải đinh”, “cài bẫy”...
Tôi vốn không mấy khi làm thơ nhưng một hôm xem phim Tây Du Ký liền nảy ra bài thơ: “Nỗi niềm Tôn Hành Giả”. Bài thơ nói về một sai lầm của thày Đường Tăng trên đường đi Tây Trúc thỉnh kinh khi xử sự với Tôn Ngộ Không, một đồ đệ trung thành, tài năng xuất chúng, để cuối cùng phải ân hận vì không phân biệt được chân – giả, lẫn lộn giữa “Người và Ma”. Bài thơ đăng trên Tạp chí Văn nghệ tỉnh sau 3 tháng thì một hôm, Bí thư gọi tôi lên:
“Anh làm chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật, một người được Tỉnh ủy giao “gác cổng” trên lĩnh vực tư tưởng chính trị trong sáng tác, thế mà tại sao anh lại đăng bài thơ do chính anh làm, ám chỉ đường lối cán bộ của Tỉnh ủy (…!?). Nếu anh viết rồi để trong cặp thì tôi không nói gì. Đằng này anh cho đăng lên Tạp chí, phát hành toàn quốc, cả nước người ta sẽ nghĩ gì về công tác cán bộ của tỉnh này, mà tôi là người đứng đầu, là Bí thư, anh hiểu không?!...”.
Bị bất ngờ, tôi ớ ra, không kịp hiểu sự thể. Hút điếu thuốc lào sặc đến 3 lần! Lúc này tôi sợ nhất không phải vì đã đăng tải bài thơ mà thấy Bí thư vốn là người rất quý tôi vì đã từng kề cận, đồng cam cộng khổ thuở hàn vi ở huyện, thường xưng hô “anh anh, chú chú” với tôi, tình cảm và cởi mở. Thế mà hôm nay tự dưng “đổi màu” gọi tôi bằng “anh” thì tôi hãi quá! Sự thay đổi đại từ nhân xưng trong trường hợp này là quay ngoắt 180° về tình cảm & lòng tin ! Tôi chỉ biết phản ứng vài câu: “Không phải đâu anh ạ!... Em không có ý đấy”.
Phải thừa nhận Bí thư vốn là người chất phác, thật thà, rất dễ tin người, nhưng cũng rất dễ định kiến. Thì ra biết tính ông thường hay định kiến với văn thơ, nên có kẻ đã lợi dụng để “tố” với ông bài thơ và suy diễn, xuyên tạc nhằm “tâng công” và “trả thù”... Đúng là do có yếu tố “ma mãnh” nên tôi rất khó giải thích với Bí thư.
Dưới sự chỉ đạo của Bí thư, ít nhất có 3 cuộc họp được tiến hành để truy cứu tư tưởng bài thơ. Đó là, Ban Biên tập Tạp chí Văn nghệ gồm 9 thành viên; tập thể lãnh đạo Ban Tuyên Giáo tỉnh ủy gồm Trưởng ban và 4 Phó ban (trong đó có Giám đốc Sở Văn hóa thông tin & Tổng biên tập Báo Đảng kiêm Phó ban); Hội đồng nghệ thuật của Tỉnh gồm 11 thành viên, có nhiều văn nghệ sĩ tên tuổi. Các Biên bản của những tổ chức này đều kết luận đại ý: đây là một bài thơ bình thường, có tư tưởng phê phán nhận thức sai lầm, rút ra bài học cho thực tiễn. Bài thơ không vi phạm luật báo chí, luật xuất bản...
Vài ngày sau, tôi muốn “hòa giải” với Bí thư bằng một bài viết tâm huyết, nói về quá trình cống hiến của mình, về quan hệ vốn rất tốt đẹp với Bí thư từ lâu. Đặc biệt, tôi đã mang hết lý luận về Văn học nghệ thuật, về Mỹ học tiếp thu được ở nhà trường những năm trước đây ra phân tích, lý giải về đặc trưng văn học, hy vọng Bí thư sẽ nhìn nhận lại... Nhưng ôi thôi, chẳng cái dại nào giống dại nào…
Một hôm tôi giật mình khi nghe tin, có kẻ ném đá giấu tay, “dùi” cho Bí thư một “quả” cực kỳ độc: “Bí thư là Ủy viên Trung ương đảng mà chả hiểu gì văn học, để một tên “tốt đen” lãnh đạo Hội Văn nghệ địa phương dám “dạy cho Bí thư bài học về văn học nghệ thuật”!... Thế là tính tự ái của con người bốc lên ngút giời...Và kết quả là tôi bị Ban thường vụ tỉnh ủy ra Nghị quyết Kỷ luật với hình thức “Cảnh cáo”, mặc dù đa số các ủy viên thường vụ vừa biểu quyết vừa... cười ruồi ! (Sau này, một vị lãnh đạo UBKT TU tại buổi họp nói lại với tôi). Tôi coi chuyện kỷ luật đó là bình thường và cũng rất chóng quên…
Trong lịch sử thế giới chưa từng thấy có nơi nào nhà văn, nhà thơ hay một tác phẩm văn học, thậm chí cả một nền văn học có thể lật đổ được thể chế chính trị. Thế mà sao có những người sợ văn, thơ đến thế? Trong “Chân dung & Đối thoại”, nhà thơ Trần Đăng khoa đã viết: “Những nhà văn, nhà thơ, những người phận mỏng cánh chuồn, tay yếu, ruột mềm, chẳng có quyền bính gì hết”.
Đúng vậy, đã là phận mỏng cánh chuồn, quyền bính chẳng có, thì tác phẩm của họ hay, dở, tốt, xấu xã hội có quyền khen, chê, chấp nhận hay vứt vào sọt rác, chứ nó đâu phải là súng ống, bom đạn phá hoại được chế độ.
Nhà văn Ngụy Minh Luận (Trung Quốc), trong một bài phiếm đàm nhan đề “Văn học và Tôi” có viết: “Văn học không phải võ học, tuyệt nhiên không có sức mạnh đè bẹp chông gai, càng không có bàn tay khổng lồ dẹp cơn bão tố, không thể làm Bồ Tát cứu thế, cũng không thể làm gian hùng loạn thế”...
Vậy cái gì đã dẫn đến những bi kịch đối với các nhà văn, nhà thơ, tóm lại, những người sáng tạo nghệ thuật “phận mỏng cánh chuồn” khi chẳng may tác phẩm của họ bị cho là “ám chỉ” cái này cái kia?
Tại sao một tác phẩm văn học khi người có quyền thế cho là xấu lại không được xử lý bằng pháp luật một cách đàng hoàng, minh bạch mà cứ từ đâu tác giả bị sấm sét, bão tố giáng xuống đầu!?...
Tháng 9 – 2012
Trong hình ảnh có thể có: trang điểm
Bạn, Tống Ngọc Hân, Nguyễn Anh Tuấn và 46 người khác
16 bình luận
1 lượt chia sẻ
Thích
Bình luận
Chia sẻ