Nhà văn Mông Cổ Dashtseven năm nay ngoài bảy mươi tuổi, thuộc thế hệ các nhà văn lớp trước, giao du với các vị trưởng lão của văn học Việt Nam như Tô Hoài, Nguyễn Công Hoan, Ma Văn Kháng… và nhiều nhà văn đương đại Việt Nam. Ông là nhà văn, và là nhà nghiên cứu văn hóa, lịch sử của Viện hàn lâm Khoa học xã hội Mông Cổ. Nhà văn Dashtseven nói thạo tiếng Việt, từng học đại học Tổng hợp Hà Nội những năm đầu thập kỷ sáu mươi, lấy tên Việt là Viên, đương kim Chủ tịch Hội Hữu nghị Mông Cổ- Việt Nam. Do điều kiện đặc biệt, tôi có dịp tiếp xúc gần gũi với ông Viên nhiều năm. Câu chuyện trên những nẻo đường gợi cho tôi viết thiên bút ký này…
1. Người Mông Cổ và người Mông.
Khi tôi đến Ulan Bato, ông Viên đã hỏi rất kỹ về người Mông ở Việt Nam. Tôi không có nhiều kiến thức dân tộc học, nên tra Google để nói chuyện với ông Viên. Khi trở về Việt Nam, tôi đi phượt lên Bắc Hà, đi Mộc Châu, đến Lào, đều chú ý xem xét người Mông. Đó là do cảm hứng từ gợi ý của ông Viên Dashtseven.
Rồi ông Viên đến Hà Nội, thế là hai anh em hành trình lên Bắc Hà, làm một chuyến đi mà theo ông “nhiều năm đã từng mong muốn”. Ông Viên tâm sự, con người dân tộc nào cũng có một tâm cảm chung, đó là “lá rụng về cội”. Càng nhiều tuổi càng hào hứng nghiên cứu về gốc rễ, dân tộc, quê hương bản quán. Số phận người Mông Cổ và quốc gia Mông Cổ của ông vô cùng đặc biệt, mỗi người chỉ cần phát hiện một phần rất nhỏ giá trị tinh thần của ông cha, cũng là một việc rất tốt trả nghĩa tổ tiên, thôi thúc người Mông Cổ hướng đến tương lai. Nhiều năm nay, ông Viên cố gắng đến những nơi có cộng đồng người Mông Cổ, những cư dân vốn là hậu duệ của các chi tộc Mông Cổ thế kỷ mười ba đã từng thống trị thế giới. Đặc biệt, ở châu Á, ông đã đi Malaysia, Indonesia, Thái Lan, Singapore, Lào, Campuchia, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc. Ở Trung Quốc, ông đến chân núi Himalaya, cách thủ phủ Tây Tạng hai trăm kilomet, tiếp xúc với cộng đồng rất lớn người Mông Cổ đã ở đó từ sau khi nhà Nguyên thất bại. Các dòng họ đều tự nhận mình là Mông, giữ lại truyền thuyết về quá trình di cư của mình. Ông Viên đã xâu chuỗi những kinh nghiệm đó, và rút ra kết luận, người Mông ở Việt Nam, ở Lào, ở Miama và khắp Đông Nam Á di cư từ Nam Trung Quốc, và đều là những chi lưu người Mông xuất phát từ thảo nguyên Mông Cổ. Đó là lý do ông Viên hằng mong đến nơi sinh sống của người Mông Việt.
Tôi tra tài liệu ở Việt Nam, kỳ lạ thay, không có tài liệu nào nói về người Mông như ông Viên đã nói. Mọi tài liệu đều chỉ nói rằng, người Mông (trước đây gọi là Miêu, Mèo, Hmong) di cư từ Nam Trung Quốc cách đây 300 đến 500 năm, gần nhất là khoảng 100 năm vẫn còn nhiều người tiếp tục di cư từ phía Bắc xuống Việt Nam.
Ông Viên Dashtseven có lập luận khác, đó là khi nói về nguồn gốc dân tộc, các nhà nghiên cứu cần có tâm thế “lạnh”, khách quan, căn cứ chủ yếu từ tài liệu thành văn, từ kết quả khảo cổ. Còn nhà văn có một kênh thông tin khác, đó là những giá trị tinh thần phi vật chất, sợi dây duy tình có tính tâm linh. Đôi khi không thể chứng minh bằng lý, lập luận đậm chất duy tâm, linh cảm lại không thể nào bác bỏ được.
Tôi đã xem bảo tàng các dân tộc ở Mông Cổ, thật ngạc nhiên khi thấy một số dân tộc có trang phục giống như trang phục của người Mông Việt Nam, Mông Lào, có dân tộc trang phục giống với người Dao Việt. Theo lý tự nhiên, bộ phận di cư thường mang theo, gìn giữ tập tục cổ sơ từ thời điểm xuất phát. Còn bộ phận dân cư nơi gốc gác có thể có những thay đổi do hoàn cảnh xã hội. Cho nên, trang phục ngày nay của người Mông Việt, lại đúng như trang phục cổ của người Mông Cổ ở một số địa phương.
Đến Bắc Hà, ông Viên chăm chú xem chợ ngựa. Những con ngựa Mông Việt Nam nhỏ bé, leo núi giỏi, nếu đứng cạnh ngựa thảo nguyên Mông Cổ, chỉ như lũ ngựa con. Ông Viên hỏi cặn kẽ tiếng Mông, những danh từ chỉ hàm thiếc, yên cương, chỉ ngựa đực, ngựa cái, ngựa con… Con ngựa quả thực gắn bó với đời sống người Mông, tập quán từ ngữ liên quan đến ngựa cũng tương tự như người thảo nguyên với ngựa, nhưng có thể thấy, âm phát thì ít giống nhau. Ông Viên lý giải: “Du mục thảo nguyên, đến chỗ du mục trên những triền núi quả thật không thể giống nhau… Vả lại, ngôn ngữ là sinh ngữ, nó phải biến đổi theo điều kiện xã hội và môi trường sống”.
Đối xử với con ngựa, còn một đặc điểm giống nhau nữa, là khi phải dùng ngựa làm thực phẩm, thì người Mông Cổ rất coi trọng bộ ruột ngựa, coi đó là bộ phận thức ăn bổ dưỡng, ưu tiên người cao tuổi trong nhà. Ông Viên rất thích thú thưởng thức món “thắng cố” ngựa. Theo ông, người Mông đã di cư mang theo tâm thức về món ruột ngựa, đến một nơi ẩm thực chế biến giỏi như cộng đồng người Việt, có các gia vị địa phương đặc biệt, thì ắt sản sinh ra món thắng cố.
Tôi đã đến thảo nguyên Mông Cổ, cảm nhận được vai trò con ngựa trong đời sống hàng ngày của cư dân. Người Mông Cổ tự hào là bộ phận dân cư duy nhất trên thế giới còn giữ được phong tục quý báu của tổ tiên là hàng ngày uống sữa ngựa. Đồng cỏ Mông Cổ hàng nghìn năm trước như thế nào, ngày nay vẫn như vậy. Dân du mục Mông Cổ sống gần giống với tổ tiên hàng nghìn năm nay. Ông Viên nói với tôi: “Các nơi khác dùng sữa bò, sữa dê làm thực phẩm đồ uống, coi là bổ, nhưng ở Mông Cổ thì sữa bò sữa dê chỉ để chế biến thức ăn khô dự trữ hoặc bán cho các công ty chế biến sữa. Thức uống hàng ngày với người dân là sữa ngựa, cội nguồn sức mạnh của thảo nguyên. Sức khỏe người du mục là bắt nguồn từ sữa ngựa”.
Tôi đã thấy người Mông Cổ vắt sữa ngựa. Điều đặc biệt ở loài ngựa, khác hẳn loài bò, là chỉ cho vắt sữa khi có con ngựa con của nó đứng cạnh. Từ sữa ngựa uống hàng ngày, người ta làm ra bia sữa ngựa, một loại sữa lên men độ rượu nhẹ có hương vị đặc biệt, dùng khi lễ lạt, hội hè. Không phải ngẫu nhiên mà một bộ phận cư dân buộc phải chọn núi cao làm nơi sinh sống, như người Mông Việt, vẫn gắn bó với con ngựa. Tưởng như những con ngựa không còn phi nước đại như ở thảo nguyên, thì nó vẫn cần mẫn với người, qua những triền núi cheo leo. Đây có thể là một luận điểm trong giả thuyết nguồn gốc người Mông rất khó chứng minh họ xuất phát từ thảo nguyên Mông Cổ, nhưng lại khó bác bỏ. Tại sao rất nhiều dân tộc ít người khác không gắn bó với con ngựa trong đời sống, như người Mông Việt?
Về phong tục, người Mông Cổ thảo nguyên khi xưa, cũng có nhiểu bộ tộc có tục bắt vợ. Và, một nét văn hóa đặc biệt nữa, là người Mông Cổ cũng như người Mông sinh sống và tổ chức đời sống theo từng dòng họ. Năm xưa chinh phục thế giới, người Mông Cổ cũng di cư theo dòng họ, trong tập quán nói năng cũng dùng tâm thức “cái lý” của người Mông Cổ mà nói với nhau, nói với người ngoại tộc.
Ông Viên Dashtseven cảm khái: “Tôi hằng mơ đến được Bắc Hà, lần này toại nguyện”.
2. Những ông vua Hùng…
Nhà văn Dashtseven là người nói tiếng Việt, cũng có thể coi là một nhà Việt Nam học, ông đã mở cho tôi một chân trời kiến thức đối chiếu về thời đại vua Hùng. Không chỉ tổ tiên người Việt là vua Hùng, mà tổ tiên các bộ tộc Mông Cổ cũng (gọi) là… vua Hùng.
Đi qua lối rẽ vào Đền Hùng, ông Viên hỏi tôi: “Theo anh, vì sao lại là vua Hùng?” Dường như giải thích câu hỏi, ông nói: “Họ là Hùng, hay tên, hay nước Hùng?”
Về chữ “Hùng”, sử gia và nhà văn hóa Việt Nam đã tốn không ít giấy mực. Nào là thời đại vua Hùng kéo dài hai nghìn năm, nào là các vương triều Hùng vương là các “dòng” vua, chứ không phải “đời” vua, có tài liệu còn viết giấy trắng mực đen các ông vua Hùng sống đều một trăm mấy chục tuổi… Tôi thì thích lý giải của ông Trần Quốc Vượng, nên nói với ông Viên Dashtseven ý kiến ấy. Thời xưa, người đứng đầu bộ tộc tiếng địa phương là Khun/Khung/Hung gì đó, thực ra hình dáng quốc gia không rõ ràng, các bộ tộc thường phục tùng một người đứng đầu của bộ tộc hùng mạnh nhất. Sau này, thời Hán hóa, sử gia Hán có chữ, bèn ghi lại âm đó bằng mặt chữ “Hùng”. Rồi con cháu tưởng tượng ra thời của tổ tiên cũng quy củ như thời có vua, bèn gọi “Hùng vương”.
Ông Viên gật đầu, thốt lên: “Đúng rồi”. Ông cũng nói rằng, đã tiếp xúc với nhiều người Việt, đã nghe nhiều người giải nghĩa chữ Hùng, đây là ý kiến ông cho là đúng nhất.
Vì sao?
Người Mông Cổ thế kỷ mười ba chinh phục thế giới, chính là hậu duệ của người Mông và các bộ tộc du mục làm nên cái gọi là Đế quốc Hung Nô, theo cách gọi của người Trung Quốc. Địa bàn của Hung Nô trải dài phần Trung Á, lãnh thổ Mông Cổ, Bắc Trung Quốc bây giờ. Đế quốc Hung Nô tồn tại khoảng trước năm hai trăm trước công nguyên (trước thời Tần) và hùng mạnh vài trăm năm đến khoảng thời Đường Trung Quốc. Trong thời Tần, Hán, người Hung Nô là nỗi khiếp sợ của quân đội Trung Nguyên. Tuy nhiên, Hung Nô tan rã bắt đầu từ thời trị vì của Hán Vũ Đế. Danh xưng Hung Nô là do người Hán đặt ra, có ý miệt thị và dồn vào đó nỗi căm tức: Người/nước Hung (là) nô lệ. Cho nên, giờ đây người Mông Cổ chỉ nhận là hậu duệ của “đế quốc” Hung (mà không có chữ Nô). Cũng như nước Hung-ga-ri là hậu duệ của người Hung (nô) xâm chiếm châu Âu.
Ông Viên cho biết, người Mông Cổ và các bộ lạc thảo nguyên (cả Trung Á và Tây Tạng) đều gọi người đứng đầu bộ tộc là Hung. Có thể phát âm khác một chút tùy địa phương: Hung/ Khung/ Un/ Ung. Các bộ lạc thần phục, hay đất đai thần phục đều là của Hung/Khung/Un/ Ung. Do đó, tổ tiên của người Mông Cổ và các bộ lạc du mục cũng là Hung. Người Hán dùng chữ Hung để gọi, sau này thêm chữ Nô miệt thị. Còn tại Nam Trung Quốc, họ dùng chữ Hùng, hợp với tập quán đơn âm của vùng Bách Việt Lưỡng Quảng.
Một lần nữa, tôi đã kiểm chứng giả thuyết của ông Trần Quốc Vượng nêu ra về chữ Hùng và thấy linh cảm tài tình của nhà sử học khi nêu ra giả thuyết về một hiện tượng khó có thể chứng minh.
Các vua Hùng của vùng thảo nguyên Mông Cổ và Trung Á có thể tồn tại đến thời Tần Hán, còn các vua Hùng của Việt Nam đã bị Tần Hán chinh phục từ trước đó, ký ức huyền thoại chỉ còn giữ đến “đời Hùng vương thứ mười tám”, ký ức sử thành văn thì giữ đến nước Nam Việt của Triệu Vũ đế, nên các sử gia phong kiến đều coi nước Nam Việt của Triệu Đà là tiếp nối thời đại Hùng vương, Hai Bà Trưng khởi nghĩa là muốn khôi phục nước Nam Việt, khôi phục tổ chức xã hội Hùng vương. Trong khi đó, tương ứng thời kỳ nước Nam Việt, các vua Hung ở Mông Cổ vẫn còn thét ra sấm sét khiến người Hán kinh sợ.
Người Mông Cổ giờ đây cũng bắt đầu nghi ngờ và bác bỏ truyền thuyết Hung Nô là hậu duệ của vua Kiệt, một vị vua hung bạo trong lịch sử Trung Quốc (Kiệt, Trụ, đối lập với Nghiêu, Thuấn). Đó hẳn là sản phẩm Đại Hán. Kiệt là vua sống thời cuối Hạ, trong khi đó đất đai và dân cư của Hung tồn tại sớm hơn nhiều. Hay ho làm sao, người Việt tự viết nên huyền thoại về nguồn gốc của mình, tôn vua Hùng làm anh trưởng trong một bọc của mẹ Chim Âu, bố Rồng Lạc. Tôi đã cắt nghĩa nguồn gốc chữ “đồng bào” cho ông Viên, nhân bàn về các ông vua Hùng, vua Hung của hai dân tộc. Ông Viên thốt lên: vua Hùng Việt Nam thật may mắn, còn Hung (trong suy nghĩa, phất âm “Hung” đã hàm ý là thủ lĩnh, là vua rồi) của người du mục vẫn còn oan khuất.
3. Gánh nặng quá khứ.
Đến Mông Cổ, du khách không thể bỏ qua các viện bảo tàng. Đập ngay vào mắt chúng tôi là bản đồ Mông Cổ thế kỷ mười ba. Vó ngựa người Mông Cổ đã đến gần hết cựu thế giới. Tôi đã đến bảo tàng ở UlanBato và nơi thờ phụng Tringit Khan (Thành Cát Tư Hãn) cách thủ đô gần trăm cây số, đều thấy những bản đồ kiêu hãnh của người Mông Cổ. Cho đến nay, cũng còn thấy dấu vết Mông Cổ khắp châu Âu, châu Á (trừ Ấn Độ).
Nhưng tại sao một dân tộc hùng mạnh như vậy, bây giờ chỉ còn vang bóng trong các viện bảo tàng?
Lịch sử Việt Nam cũng có một chút liên quan với Mông Cổ. Đó là dấu vết vó ngựa quân Nguyên Mông thế kỷ mười ba. Tại Mông Cổ, việc Mông Cổ có coi Việt Nam là khu vực chiếm đóng không, cũng là vấn đề không nhất trí. Tôi nhìn thấy một bản đồ ở Bảo tàng UlanBato có cả Việt Nam trong “khu vực thuộc Mông Cổ thế kỷ XIII”. Nhưng nhà văn Tô Đức Chiêu kể lại, trong chuyến đi Mông Cổ đã nhìn thấy một bản đồ không có lãnh thổ Việt Nam ngày nay nằm trong thành phần chinh phục của Mông Cổ và được lý giải là: Quân Mông Cổ có đến, nhưng không hợp phong thủy nên rút lui về. Cách nào cũng có lý giải hợp lý hợp tình, bởi vì, dù cho năm 1258 gọi là quân Mông đánh Đại Việt, thì chỉ có các tướng Mông, còn đạo quân gồm quân sĩ Trung Quốc, quan lại nhỏ đi theo là lũ Hán Nô. Cho đến cuộc viễn chinh đối diện với quân Trần của Hưng Đạo vương, thì ngoài vài tướng Mông Cổ, các tướng cũng đã là Hán Nô cả rồi.
Chiến thắng oai hùng của quân Mông dẫn đến việc các dòng họ Khan chia nhau chinh phục thế giới, riêng dòng họ Khan Kubilai (Hốt Tất Liệt) đã làm chủ Trung Hoa lập ra nhà Nguyên khét tiếng. Tuy nhiên, cũng như sông có khúc, người có lúc, một triều đại huy hoàng rồi cũng suy tàn, và nhà Nguyên đã bị nhà Minh đánh bại. Theo ông Viên, hoàng gia Nguyên gồm các quý tộc Mông ở Trung Quốc, toàn bộ đã kéo về nguyên quán. Hoàng gia Nguyên trở về mà không bị mất mát mấy. Sau đó, chính các dòng Khan từ Trung Quốc về lại tranh hùng với các Khan nơi bản quán.
Lý lẽ của ông Viên khiến tôi ngạc nhiên. Bấy lâu nay, người Việt thường có quan niệm là những người Mông, Mãn cai trị Trung Quốc, phần lớn bị Hán hóa, trở thành người Hán, do sức mạnh văn hóa Hán. Ông Viên Dashtseven cho rằng, có thể người Mãn kéo ồ ạt đến Trung Nguyên bị Hán hóa, do đặc tính thời đại, nhưng dứt khoát người Mông không có cái gọi là “bị Hán hóa”. Bởi vì người Mông Cổ thế kỷ mười ba dân số rất ít, di cư khắp thế giới, thì bộ phận tinh hoa hoàng tộc làm vua ở Trung Quốc cũng không nhiều, khi bị động, đã kéo hầu như toàn bộ trăm phần trăm về đất Mông Cổ. Bộ phận dân cư sinh sống xa kinh đô, thì như đã nói, đã thiên di gian khổ và lâu dài, trở thành dân tộc Mông, chứ quyết không thành người Hán. Thời gian và những biến cố phủ lên các tộc người di cư, làm biến dạng phong tục tập quán, phát sinh những tập quán mới, hình thành những cộng đồng, mà người Mông ở các nước phía Nam Trung Quốc là những cộng đồng ấy.
Một bộ phận dân cư Mông Cổ sau thế kỷ mười ba đã sinh sống và đan kết với thổ dân Tây Tạng, làm thành một nền văn hóa đặc sắc, có tự dạng chữ viết gần giống nhau. Ngày nay, Phật giáo ở Mông Cổ cũng thuần một dòng Mật tông với Tây Tạng. Tôi đã đến các ngôi chùa Mông Cổ, chứng kiến họ tự do công khai thờ Đại Lai Đạt Ma thứ 14 đang lưu vong. Đó là sự lựa chọn thuần tôn giáo mà nhà nước cũng không can thiệp được.
Một nét đặc sắc tương đồng nữa, là giống chó ngao Tây Tạng. Theo ông Viên, giống chó ngao Tây Tạng, thực chất là chó chăn cừu Mông Cổ. Con chó này theo chân quân viễn chinh, rồi định cư lại vùng người Mông cách thủ phủ Tây Tạng hai trăm kilomet. Cho đến năm 1980, nước Mông Cổ còn khoảng 500 con chó giống này. Nhưng đến nay đã hầu như vắng bóng chó thuần chủng, chỉ còn những con chó lai. Hậu quả của việc thu mua của người Trung Quốc, bởi vì người Trung Quốc sang thảo nguyên Mông Cổ mua giống chó này với bất cứ giá nào. Với đời sống du mục, và với nền quản lý hành chính còn yếu kém, thì người Mông Cổ không thể chống đỡ được cuộc xâm lăng chiếm dụng nguồn gen quý con chó thuần chủng.
Tôi đã đi xe ô tô trên thảo nguyên Mông Cổ, chứng kiến những con chó xù như con sư tử nhỏ, xông ra ác liệt sủa và chạy theo xe ô tô, đến một lúc đột ngột dừng lại, đó là phạm vi đất đai sở hữu của chủ chó. Không có hàng rào đánh dấu, chỉ có một hai mô đất nếu không để ý thì không thấy được. Nhưng con chó biết rất rõ phạm vi cương thổ của nó. Ông Viên chỉ những con chó ấy, nói rằng chúng chỉ là con lai của loài chó quý Mông Cổ đã bị người Trung Quốc thu mua như cướp mất, rồi chiếm dụng cả cái tên, đặt thành chó Ngao Tây Tạng.
Tôi đã đến thảo nguyên Mông Cổ, khi ấy là tháng Tám dương lịch, cỏ thảo nguyên đã hết lứa tốt nhất mọc từ mùa xuân, bắt đầu đến lớp cỏ tái sinh, rồi cũng sẽ bị lũ gia súc mót hết để đón mùa tuyết rơi. Tôi ngạc nhiên vô cùng khi phát hiện ra những loại có tên là “cỏ” trên thảo nguyên, khác hẳn với cỏ Việt Nam. Đây là những loại cây giống như những loại cây làm thuốc mà chúng ta thấy, và giống các loại rau thơm ở Việt Nam. Mỗi cây là một hình dạng, muôn vạn loại, muôn vạn hương hoa. Ngắt một cọng cỏ thảo nguyên Mông Cổ, xoa trong bàn tay, rồi đưa lên ngang mặt, sẽ cảm nhận được mùi hương hăng hắc thơm vô cùng quyến rũ.
Ông Viên nói: “Nó vẫn thơm như thế từ xa xưa…”
Ông tự hào nói: “Mông Cổ là nơi cư dân vẫn giữ nếp sống như cha ông mình cách đây hàng ngàn đời, đó là du mục; cỏ thảo nguyên này vẫn là hậu duệ của cỏ ngày xưa, ngựa bò dê cừu này vẫn là hậu duệ của cha ông chúng đã từng theo Thành Cát Tư Hãn…” Tôi hỏi ông Viên: “Anh có đọc quyển “Tô tem sói” của Khương Nhung bên Trung Quốc không?”. Ông Viên cười: “Có chứ. Người Mông Cổ may mắn không bị mất môi trường sống như Nội Mông, nhưng cũng đã những cú sốc vì làn sóng định canh định cư hồi tập thể hóa (Mông Cổ chưa có công xã, chỉ có hợp tác xã chăn nuôi, nhưng quá trình tập thể hóa dù đau đớn cũng không thiệt hại nhân mạng. Tuy nhiên, hồi những năm ba mươi, hàng nghìn trí thức và sư sãi Phật giáo bị giết vì nghi là gián điệp Nhật, do quan hệ Nhật- Liên Xô hồi đó căng thẳng)…”
Chuyện công xã... Cũng là một khúc quá khứ. Đó cũng là một kiểu gánh nặng khác, giống như người Việt Nam hay nói, đó là vấn đề “nhạy cảm”
4. Đối thoại
Nguyễn Xuân Hưng (NXH): Thưa anh,tại sao Mông Cổ một thời gian cũng phải theo phong trào “công xã nhân dân” mà nhịp sống truyền thống du mục vẫn giữ được?
Dashtseven (V): Có thể do sức mạnh truyền thống. Với chiều sâu hàng nghìn năm, mấy chục năm công xã tập thể hóa không thể xóa được, nhưng cũng để lại nhiều “vết thương” khó quên?
NXH: Như “cải cách ruộng đất” của Việt Nam chăng?
V: Có mặt nào đó tương tự, nhưng cũng có cái khác. Cải cách ruộng đất ở Việt Nam theo mô hình Trung Quốc. Còn công xã Mông Cổ là mô hình Liên Xô thời Stalin. Cũng là nỗi đau, nhưng vết thương có khác.
NXH: Trước hết, chúng ta nói về lịch sử, dường như Việt Nam và Mông Cổ cũng giống nhau ở chỗ, xuất phát của cách mạng là không phải hướng đến lý tưởng cộng sản, mà là những phong trào yêu nước.
V: Đúng. Xukhe Bato hướng đến nước Nga Xô viết không phải là xây dựng xã hội theo nguyên tắc của nhà nước xã hội chủ nghĩa, mà gần giống như Chủ tịch Hồ Chí Minh, giành độc lập là yêu cầu tối thượng. Thời kỳ này, Mông Cổ bị nhà Mãn Thanh cai trị, nên Xukhe Bato hướng đến nước Nga là đúng đắn. Sau Xukhe Bato, Troibanxan cũng không cương quyết theo con đường của Stalin, chỉ đến Xedenban thì cách mạng Mông Cổ mới bắt đầu một thời kỳ Xô viết, dập khuôn tập thể hóa, công xã nhân dân…
NXH: Tuy vậy, có vẻ vết thương về thời kỳ đó không dai dẳng như cuộc cải cách ruộng đất ở Việt Nam.
V: Gần đây, các sự việc thời kỳ đầu thành lập nước mới được bạch hóa. Thực ra, trong hàng ngũ lãnh đạo cao nhất cũng có sự đấu tranh. Nguyên nhân cái chết của các lãnh đạo không muốn dập khuôn Xô Viết trong những cuộc thanh trừng, vẫn là một chủ đề tranh cãi. Từ đó, triển khai xuống cơ sở cũng không phải là dễ dàng, với một địa bàn dân cư thưa thớt, đi lại khó khăn. Vết thương về thời kỳ đó ngày nay không còn nhức nhối, có lẽ là kết quả của cuộc cách mạng dân chủ năm 1990. Đảng Nhân dân cách mạng Mông Cổ đã phải nhận lỗi lầm trước toàn dân về những sai lầm, nói khéo là do “học tập nước ngoài máy móc”, thực chất là phải làm theo Maxcova vô điều kiện.
NXH: Dù sao, nỗi đau Mông Cổ có lẽ cũng có cái lý. Hướng về nước Nga Xô Viết cũng là con đường tất yếu để chống lại Mãn Thanh Trung Quốc, kẻ thù truyền kiếp.
V: Đây cũng là một vấn đề phức tạp. Có thể lấy ví dụ cuộc đời Troibansan. Ông là người Staninnit, có trách nhiệm vì những làn sóng tập thể hóa, nhưng ông cũng là một người dân tộc chủ nghĩa nhiệt thành. Chính Troibansan thúc dục Liên Xô ủng hộ giấc mơ lấy lại Nội Mông, nhưng rồi do lợi ích nước lớn, mà Liên Xô đã thỏa thuận với Trung Quốc bất chấp lợi ích dân tộc Mông Cổ. Cái chết của Troibansan đang là một nghi vấn. Ông chết trong giai đoạn cuối đời thất vọng với chính sách của Liên Xô. Chỉ đến Sedenban, Mông Cổ mới hoàn toàn chịu “hữu nghị” với người anh em lớn ở phương Bắc.
NXH: Cuộc cách mạng dân chủ Mông Cổ liệu có phải là đổi một con đường cũ lấy con đường mới vẫn trên nền đường đó không, và được truyền cảm hứng từ sự sụp đổ của Liên bang Xô Viết?
V: Ở Mông Cổ có thuyết ấy, ám chỉ việc dù cho đổi khác thì vẫn là phụ thuộc vào nước Nga. Xưa nước Nga Xô Viết, ngày nay nước Nga nửa dân chủ. Thực tế không phải như vậy. Khởi nguồn cuộc cách mạng dân chủ là làm sóng phản đối chính sách lệ thuộc của nhà nước Mông Cổ. Có thể nói, những nhà dân chủ mà phần lớn là trí thức đã có sự thức tỉnh văn hóa, phản kháng trước rất lâu những lộn xộn dẫn đến đổ vỡ của Đảng cộng sản Liên Xô. Khi mà những biến cố ở Nga xảy ra, thì nó tiếp sức cho phong trào dân chủ ở Mông Cổ một sức mạnh, khiến nó thành công.
NXH: Tôi đã nhìn thấy những bức ảnh về phong trào này ở viện bảo tàng, người lãnh đạo cầm một cái loa điện, sau này là Tổng thống đầu tiên của Mông Cổ…
V: Điều lý thú là ông ấy là học sinh của Trường học số 14 mang tên Hồ Chí Minh ở thủ đô UlanBato. Các tượng đài Lê-nin, Stalin bị loại bỏ ở Ulan Bato, nhưng tượng đài Hồ Chí Minh tại trường này vẫn còn nguyên vẹn. Trường học mang tên Hồ Chí Minh đã đào tạo cho Nhà nước Mông Cổ thời kỳ dân chủ nhiều nhà lãnh đạo tài năng. Theo sau tổng thống đầu tiên, hai vị thủ tướng cũng xuất thân từ trường này. Hồ Chí Minh vẫn là một tên tuổi đáng kính trong xã hội Mông Cổ.
NXH: Tại sao vậy? Có gì khác với việc đánh giá lại các cán bộ lãnh đạo của Nhà nước Mông Cổ?
V: Hồ Chí Minh trước hết là người giống như Xukhe Bato, tìm con đường giải phóng dân tộc, chống ngoại xâm. Người Mông Cổ vẫn ngưỡng mộ Xukhe Bato. Không thể lấy những lỗi lầm của những người đi sau ông để hạ thấp vị trí của ông trong lịch sử. Sau năm 1990, mộ Xukhe Bato ở Quảng trường trung tâm thủ đô được dời đi, mang về quê chôn cất, là một cử chỉ tôn kính mang tính truyền thống, phù hợp với tâm linh dân tộc.
NXH: Vâng, tôi đã đến Quảng trường Xukhe Bato, vẫn còn tượng đài ông ấy cưỡi ngựa rất oai hùng.
V: Chỉ có nền dân chủ thực sự mới đảm bảo sự tranh luận công khai, công bằng trong xã hội. Vàng thau không thể bị lẫn lộn. Tượng đài một số vị bị hạ bệ, nhưng tượng đài Hồ Chí Minh thì vẫn tồn tại tại ngôi trường mang tên Người, một trường học hàng đầu ở thủ đô Ulan Bato, nơi đào tạo ra các lãnh tụ của nền dân chủ mới ở Mông Cổ.
NXH: Chúng ta trở về một câu hỏi có tính phổ quát, ít nhạy cảm, đó là tại sao với một lịch sử oai hùng, nước Mông Cổ ngày nay vẫn là một quốc gia đang phát triển?
V: Gánh nặng chiến công quá khứ không ai cảm nhận hơn là người Mông Cổ ở chính thảo nguyên, nơi phát nguồn văn minh chinh phạt trên lưng ngựa. Quá khứ dù oai hùng đến đâu cũng chỉ là quá khứ. Các vấn đề của ngày hôm nay mới là những câu hỏi nóng bỏng. Người Mông Cổ cũng có những câu hỏi thôi thúc như Việt Nam: Tại sao nghèo? Vì sao không thể vươn lên? Sống ở nơi kẹp giữa các cường quốc, phải sống như thế nào? Đó là một câu hỏi không chỉ tôi và anh trả lời được.
5. Những câu hỏi lớn (phần viết thêm)
Tôi đã cùng ông Viên Dashtseven đi thảo nguyên, sống một “khoảng khắc” thời gian với người du mục. Một mặt, người Mông Cổ tự hào đã sống lại cuộc sống cha ông vốn gián đoạn mấy chục năm công xã, một mặt khác, họ cũng cảm nhận sự thúc bách của cuộc sống toàn cầu hóa đang xâm chiếm đời sống thảo nguyên.
Đầu tiên nói về căn lều truyền thống. Người Mông Cổ đã giải quyết căn bản căn lều theo hướng… thị trường. Không còn căn lều hoàn toàn truyền thống như xưa nữa. Khung xương gỗ đã là gỗ công nghiệp, mái không phải là da thuộc, mà là da giả. Nói chung có mọi cấp chất lượng và giá cả căn lều, từ hàng thủ công đến công nghiệp, dao động lớn từ 400 đô đến 40.000 đô Mỹ. Điều đáng nói là phần lớn hàng lều công nghiệp đều là hàng Mông Cổ.
Thay cho xe ngựa kéo ngày xưa, ngày nay đã là xe tải, xe bán tải, xe ô tô nhỏ. Có mặt của những phương tiện này, kéo theo một vài rắc rối trong gìn giữ môi trường. Chất đốt vẫn là phân gia súc, nhưng sức kéo lại chạy bằng xăng dầu. Chỉ có những trung tâm thị trấn mới có trạm xăng dầu. Vậy thì phải dự trữ bằng can hay mọi loại đồ đựng khác. Cùng với hàng loạt đồ đựng khác, đồ nhựa có nguy cơ làm biến dạng sinh thái thảo nguyên. Tôi đã chứng kiến nhiều gia đình đi picnic, khi ra về, mọi người đều thu dọn rác rất kỹ, mang lên xe ô tô để về thị trấn, thành phố vứt vào bãi rác. Nhưng duy trì một nếp sống mới hà khắc như thế, cũng là một thách thức.
Một vấn đề ảnh hưởng lớn đến nếp sống, đó là cho con cái đi học. Một đất nước rộng gấp gần 6 lần lãnh thổ Việt Nam, chỉ có chưa đến 3 triệu dân. Ông Viên Dashtseven nói vui, Hội Phụ nữ Mông Cổ có nhiệm vụ ngược với Hội Phụ nữ Việt Nam, đó là thúc đẩy và khuyến khích sinh đẻ. Nhưng nuôi một công dân ở Mông Cổ vô cùng nặng nhọc, khó khăn hơn ở Việt Nam. Một huyện ở Mông Cổ mà tôi đến, có khoảng gần 100 hộ dân. Chủ tịch huyện có thể biết rõ tất cả dân cư của mình, nhưng khó mà đến ngay từng nhà, ngay cả thời điện thoại di động phổ cập. Bởi vì diện tích huyện lớn bằng khoảng gấp đôi tỉnh Hưng Yên, mà các hộ dân thì du mục, có ngày di động gần một trăm kilomet. Khi có đứa bé đến tuổi đi học, người mẹ phải đi cùng con đến thị trấn, ở với nó 1-2 năm, thì mới yên tâm cho con ở nội trú, trở về căn lều du mục. Tất cả các trường học đều có nội trú, nhưng cho đến nay, với mức độ xã hội Mông Cổ, không bà mẹ nào yên tâm để con mình ở trường một mình. Với người Mông Cổ, việc ăn đơn giản, thì việc ở càng đơn giản hơn, có thể sắm một cái lều, cắm ở đâu đó gần trường, gần nguồn nước, và thế là ở 1-2 năm cho đứa con cứng cáp để gửi gắm vào trường nội trú. Học hành là cả một vấn đề lớn cho xã hội du mục. Cho nên, việc vẫn có những người không đi học, hoặc học đủ đọc viết thôi, cũng là một vấn đề của người Mông Cổ.
Trong khi đó, người Nhật, người Hàn đã hiện diện ở Mông Cổ như những ông chủ đầy thế lực. Người Nhật, Hàn mang hàng hóa và ô tô đến. Họ thuê đất trồng rau. Tôi bảo ông Viên, liệu có đến ngày họ thuê đất chăn nuôi thức ăn công nghiệp không? Khi đó thì đời sống người Mông Cổ bắt đầu đối mặt với thảm họa mà thế giới và Việt Nam đang chịu đựng, đó là thức ăn bị đầu độc. Ông Viên tự tin cho rằng, điều đó chưa đến, chừng nào người láng giềng phương Nam khổng lồ còn chưa tràn qua biên giới…
Người láng giềng phương Nam của Mông Cổ, cũng là người láng giềng phương Bắc của Việt Nam. Hai nước dường như gặp cùng một vấn đề, nhưng hiện nay ở Mông Cổ vẫn còn cơ hội lạc quan. Trong chuyến đi thảo nguyên với tôi và ông Viên, có một nữ nhà thơ, đồng thời là chủ một doanh nghiệp xây dựng, doanh thu khoảng 50 triệu USD một năm. Bà chủ doanh nghiệp cho biết, bà buộc phải thuê nhân công xây dựng là người Trung Quốc, nhưng cũng có cam kết làm đúng luật, nghĩa là không cho người Trung Quốc ở quá 4 tháng, một người trong 3 năm không được gia hạn quá một lần. Bà nói, quy định này có thể thay đổi chút ít về thời hạn, nhưng mục tiêu là kiểm soát lao động và không để người Trung Quốc định cư ở lại. Theo bà chủ này, mỗi người chủ doanh nghiệp Mông Cổ vốn có sẵn tinh thần dân tộc trong máu, không bao giờ làm trái pháp luật, dù cho bà có thiệt hại tiền bạc, nhưng quyết không để thiệt đến quyền lợi chủ quyền đất nước. Đây là một lần tinh thần dân tộc được dịp phát huy, nhờ hun đúc từ tinh thần của các vua Hung và Thành Cát Tư Hãn ngày xưa.
Bằng thứ tiếng Anh không lưu loát, tôi đã hỏi chuyện một cảnh sát, và được biết, công việc quan trọng nhất của họ là tìm người Trung Quốc nhập cư bất hợp pháp. Còn người Việt thì sao? Anh ta cười, bảo tôi đến phố sửa chữa ô tô. Tại đó, có khoảng 700 người Việt làm thợ sửa ô tô. Họ chỉ làm thợ dưới sự cầm trịch của ông chủ Mông Cổ. Tại sao không người Việt nào đầu tư sửa ô tô ở Ulan Bato, mà chỉ làm thuê? Đó là một câu hỏi thú vị, nếu nghiên cứu Luật đầu tư nước ngoài của họ. Luật đảm bảo cho những nhà đầu tư lớn có tiềm lực đứng chân. Điều này Mông Cổ tỏ ra kế thừa trí tuệ và sức mạnh của các Hung và Thành Cát Tư Hãn mà con cháu vua Hùng nên học hỏi… Nương nhẹ với các bạn Việt Nam, kiên quyết với các bạn Trung Quốc, đó cũng là một cách làm đáng kính trọng, đơn giản tôi là người Việt.
Còn nhiều vấn đề khác thú vị mà tôi định nói, nhưng tôi muốn đến đất nước thảo nguyên ấy một lần nữa rồi mới viết…