HOÀNG DÂN – ĐƯỜNG VĂN
I. HÚT CẠN ĐÁY THẲM,
TÔI TÌM THẤY… TÔI!
(Bình bài Dường như)
HOÀNG DÂN
Dường như số phận trêu ngươi,
Gặp rồi xa, lại gặp … rồi… xa thêm…!
Buông tay, chìm tận tim đêm,
Hút cạn đáy thẳm, tôi tìm thấy… tôi…*
Tạo hóa vốn bất công, một sự bất công muôn thuở mà chúng sinh chỉ có quyền duy nhất là chấp nhận! Oán hận, nguyền rủa, đập phá…chẳng giải quyết được gì! Lẩm bẩm “đáng nhẽ, giả sử, nếu như…” cũng vô nghĩa! Tuyệt vọng, tìm đến cái chết, càng vô nghĩa hơn! Sinh ra, nhiều người lành lặn, khỏe mạnh, thông minh… và hầu như suốt đời hanh thông, may mắn cả trên hoạn lộ lẫn tình duyên; nhưng cũng không ít kẻ bị mù, điếc, câm, bại liệt, thiểu năng… và phải gồng mình lên để sống cho hết kiếp cũng đâu có dễ?
Người điếc mơ một lần trong đời được nghe tiếng chim hót, tiếng suối chảy, tiếng cười trẻ thơ… Người câm chỉ ước trong đời được một lần gọi lên hai tiếng “Mẹ ơi”… Người mù chỉ mong một lần được nhìn thấy cảnh mặt trời mọc… Giản dị vậy thôi, nhưng vĩnh viễn chỉ là ảo vọng! Những kẻ may mắn có đủ mắt sáng, tai thính, mồm dẻo… thường không thể cảm nhận hết giá trị của những báu vật ấy, cho nên không những không biết thành tâm tri ân sự ưu ái của Tạo hóa mà đôi khi còn vén môi lên chửi cả Trời lẫn Phật. Với những kẻ này, không có ước mơ mà chỉ có lòng tham vô đáy!…
Nguyễn Việt Anh là một trong những chàng trai bất hạnh. Ý thức sâu sắc nỗi bất hạnh của mình, nhưng Việt Anh không oán trời trách đất, cũng không chỉ chấp nhận; mà còn vượt lên nỗi bất hạnh bằng cách sáng tác văn chương. Đọc thơ Việt Anh (tập thơ Thức cùng bóng tối (2014), tập truyện mini cho thiếu nhi Bầu trời nhỏ (2015) và Chùm triết tình 36 bài lục bát bốn câu (2015), người đọc sẽ cảm nhận được nghị lực đáng trân trọng này, mà theo tôi, rõ nhất, cụ thể nhất là bài lục bát bốn câu “Dường như”.
***
Dòng thơ đầu: Dường như số phận trêu ngươi là lời cảm thán, tuy chỉ thoáng qua, nhưng cũng đủ ám ảnh – nỗi ám ảnh mà dù con người có lí trí đến đâu chăng nữa, cũng có lúc phải bật ra như tìm một sự giải tỏa.
Dòng thứ hai: Gặp rồi xa, lại gặp… rồi… xa thêm… theo tôi, là dòng thơ đầy ám gợi bởi sự đa nghĩa của nó. Gặp rồi - gặp ai? Không xác định!... lại gặp… rồi… xa thêm! Càng mù mờ, vô định! Không có đối tượng nào cụ thể để “gặp” tức là… cô đơn, cô đơn tuyệt đối!
Đến dòng thứ ba: Buông tay, chìm tận tim đêm thì tâm thế cô đơn trên đã được đẩy tới giới hạn cuối cùng. Buông tay là tuyệt vọng? chìm tận tim đêm là trạng thái rơi tự do vào hư vô? Hai từ tim đêm là một sáng tạo ngôn từ khá mới mẻ. Bởi ta thường nói (viết): tim người, tim voi…; tim đường, tim núi… chứ chưa từng nghe có cụm từ tim đêm ở đâu, bao giờ?! Như vậy, tim đêm là một hình ảnh nhân hóa, (vật hóa), đồng thời cũng là ẩn dụ chỉ trái tim thổn thức của người khiếm thị phải vĩnh viễn sống trong bóng đêm, nhưng vẫn ngoan cường “Thức cùng bóng tối”. Đó là một liên tưởng kép, liên tưởng chồng giàu sức biểu hiện. Biểu hiện cái gì? Biểu hiện một sự thật tàn nhẫn: sự vật có thể được nhân hóa để có hồn người, nhưng con người cũng có thể bị vật hóa để trở thành vô tri, vô dụng. Muốn chống lại nguy cơ bị vật hóa thì chỉ còn mỗi cách phải bằng mọi giá vượt lên cảnh ngộ. Mà, lẽ thường, trong mọi cuộc bứt phá, không phải ai cũng có thể dễ dàng tới đích!...
Nhưng bắt sang dòng thơ cuối cùng: Hút cạn đáy thẳm, tôi tìm thấy… tôi! thì người đọc thở phào nhẹ nhõm và chia vui với nỗ lực bứt phá thành công của chủ thể trữ tình. Hút cạn đáy thẳm là dũng cảm đi tới giới hạn cuối cùng của nỗi cô đơn, tuyệt vọng. Hơn thế, chính ở cái giới hạn mà con người sẽ mất hút trong hư vô này, Việt Anh đã: tôi tìm thấy… tôi! Một cái tôi nhỏ bé, khiêm nhường, nhưng không tầm thường, cái tôi từ chỗ kìm nén mặc cảm mà bùng nổ tự tin… Cái tôi có thể gây xúc động cho những tâm hồn biệt nhỡn liên tài.
Tôi chân thành chia sẻ với những niềm vui và nỗi buồn chùm thơ đượm ý vị triết tình (tình cảm mang tính triết lý hay triết lý bằng trái tim) khá tập trung và độc đáo của Nguyễn Việt Anh. Ở một khía cạnh nào đó, tôi nghĩ: cây viết khiếm thị trẻ giàu nội lực này có thể là tấm gương cho không ít người đang loay hoay với những nỗi bất hạnh của riêng mình./.
* Bài thơ thứ 22 trong chùm Triết tình lục bát 4 câu của NVA (7 – 2015)
Thạch Bàn, sau những ngày mưa, 4 – 8 – 2015. HD
II. TRIẾT TÌNH SINH - DIỆT - DIỆT - SINH
(Bình bài Sớm mai*)
Song bình 1: HOÀNG DÂN - ĐƯỜNG VĂN
Đập tan sạch bách vô tình!
Đập tan ráo trọi vô minh, vô thường!
Đập tan luôn cả mình luôn!
Sớm mai, một ngọn xanh rờn… trồi lên.
1
Câu:
Hút cạn đáy thẳm, tôi tìm thấy tôi…
(Dường như (22),
theo tôi, không chỉ là cái đinh găm tư tưởng triết lý của Dường như mà còn là một trong những “Tuyên ngôn nghệ thuật” của NVA – một tuyên ngôn hướng nội, giản dị và thấp thoáng chút ngậm ngùi. Con người nói chung thường rất dễ đồng cảm với những điều giản dị và dị ứng với những “lập thuyết” đao to búa lớn, trống rỗng.
Thế nên khi đọc “Sớm mai”, cơ hồ trực giác tôi đã “ngấm thẳng” câu mở đầu: Đập tan sạch bách vô tình!
Thật quyết liệt và cũng thật… đau đớn! Đã “đập tan” tức là không thể phục hồi, lại “sạch bách” tức là tuyệt đối không khoan nhượng, không luyến tiếc! Đối tượng để “hành quyết” là gì? Là thói “vô tình”! Theo nghĩa hướng ngoại thì thói vô tình là khởi đầu, sau đó sẽ là vô cảm và cuối cùng là vô lương (tâm)? Đó cũng là một nẻo đường đời mà không ít kẻ mắt tinh, tai thính, mồm dẻo… đang ngạo nghễ thăng tiến và kiếm chác – những kẻ vô cảm, vô lương này làm sao có thể cảm, thấu được nỗi thống khổ của thảo dân nói chung, chứ đừng nói là những thảo dân không may bị khiếm thị, khiếm thính, và khiếm hành ngôn…? Chúng có thể vung bạc tỉ để “hối lộ” thần phật, nhưng không thể mở miệng nói nổi một lời tử tế với những nạn nhân khốn cùng đang lần hồi lê lết trong trập trùng bóng tối.
Nhưng theo nghĩa hướng nội thì câu chuyện lại khác? Hình như chủ thể trữ tình muốn tự “đập tan” chính sự an phận, yếm thế, tự ti, mặc cảm… tù đọng của mình để khơi dậy những cảm hứng của lòng ham sống, ham yêu, ham sáng tạo?
Câu hai:
“Đập tan ráo trọi vô minh, vô thường”
đã minh chứng cho phỏng đoán trên. Vẫn quyết liệt và triệt để như câu mở đầu, nhưng ở đây đối tượng “hành quyết” là sự u mê, tăm tối, ngu dốt, hèn hạ; là sự đổi thay, quay quắt của thói đời. Dường như chủ thể trữ tình đã nỗ lực tự “khai sáng” cho chính mình để có đủ dũng khí vượt lên những thói thường mà con người rất khó tránh.
Câu ba:
“Đập tan luôn cả mình luôn!”
là hệ quả tất yếu của ý tưởng ở hai câu trên. Trước hết, nó là lời tự thú chân thành rằng, ta cũng có những thời đoạn nào đó từng chìm đắm trong những u mê, mặc cảm, tự ti, phẫn chí, buông xuôi…; nhưng rồi ta bỗng giật mình sám hối và bùng cháy một khát vọng “thay máu” cho bản thân – một cuộc “thay máu” không hề dễ dàng, nhưng đó lại chính là “cửa sinh” duy nhất, giữa bát trận đồ thiên la địa võng của cõi người;… không thể khác! Hành động tự giác này xem ra có vẻ liều mạng, điên khùng, hơi bị tự lên gân, cường điệu, đánh bóng, PR gì đó,… nếu đặt vào văn cảnh khác. Nhưng ở đây, đặt trong văn cảnh, tâm thế cụ thể này, trong sự nối mạch với 2 câu trên và câu kết liền dưới, đọc đi đọc lại, tôi vẫn không hề thấy cảm giác tồi tệ, đáng chán ấy. Mà ngược lại, cảm nhận rằng, nhịp thơ liền và nhanh, dứt khoát như 1 lằn tên đã rời khỏi cung, chỉ 1 đích phóng tới. Ý thơ sáng ngời. Tình thơ hào sảng. Đó là câu thơ giản phác, thẳng băng, thể hiện ý chí và nỗ lực quyết đưa quá trình tự diệt, tự hủy thể xác và tâm tưởng bản thân đến tận cùng, đặng kết thúc một chu trình cuộc sống. Về nghệ thuật và giọng điệu, ai dám bảo thơ lục bát không chở nổi những cảm xúc, tâm trạng mạnh, nhanh như chớp xoẹt? Đọc vang thành tiếng, bỗng nhiên thống khoái lạ lùng!
Sớm mai, một ngọn xanh rờn… trồi lên!
Vào lúc bình minh ló rạng, mà bình minh nào cũng chứa chan hi vọng, sẽ có một ngọn xanh rờn… trồi lên! Đó sẽ là một gương mặt mới, sự sống mới hồi sinh, tái sinh sau những dằn vặt, đớn đau âm ỉ, dai dẳng trong tâm hồn của một người thơ bất hạnh, nhưng không bao giờ chịu buông xuôi – một người thơ can đảm và khả ái!
Thạch Bàn, 7. 8. 2015. HD
2
Trong quá trình đọc – biên tập chùm 36 bài Triết tình lục bát bốn câu của Nguyễn Việt Anh (7–2015); (theo đề nghị của tác giả); đã được trích đăng trên các blog trannhuong, nguyennguyenbay, vunhoNINHBINH.com, (30 – 7 - 8 – 2015), tôi cũng đã có một vài ý nghĩ đồng hướng với anh bạn văn Hoàng Dân xứ Thạch Bàn, Long Biên. Nay xin nói rõ hơn vài điểm tâm đắc, qua một lời song bình viết vội.
Trong thực tế văn học sử, thơ triết lý thế giới xuất hiện từ thời cổ - trung đại (Hi – La, Ai cập, Trung Quốc, Ấn độ…). Thơ triết lý Việt Nam cũng ra đời từ rất lâu với Mãn Giác Thiền sư (triều Lý), Tuệ Trung Thượng sỹ (triều Trần), Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (thế kỷ 16)… Giữa thập kỷ thứ 2 thế kỷ 21, cây viết khiếm thị trẻ Nguyễn Việt Anh nuôi khát vọng tập sáng tác loại thơ khó này bẳng chùm 36 bài lục bát bốn câu. Khát vọng nghệ thuật đáng trân trọng ấy bước đầu đạt kết quả đến đâu?
2.1. Trước hết, nét độc đáo nổi bật của chùm thơ này, theo tôi, là ở:
+ Nó rất tập trung về chủ đề (chuyên đề) và tính chất thể loại như 1 thể nghiệm nghệ thuật mạnh bạo đầu tiên của người viết mà tôi tạm đặt tên bằng cụm từ - thuật ngữ hơi dài: Triết tình lục bát bốn câu. Nguyễn Việt Anh chủ ý chọn thể thơ dân tộc truyền thống 6/8 như 1 lối chơi độc tấu đầy dũng cảm và tự tin, dù biết trước sẽ khó tránh khỏi sự đơn điệu, trùng lặp về vần điệu, nhất là về giọng, nhịp. Anh đang hết sức nỗ lực cần mẫn và quyết tâm đi tìm một lối lục bát của riêng mình. Lần này, Việt Anh lại tự thử thách trong thể lục bát 4 câu, rất ngắn, cô đúc để thể hiện những nội dung hiện thực – triết lý sâu xa. (Lưu ý: Lục bát 4 câu không phải là thơ tứ tuyệt (như tứ tuyệt Đường luật (thất ngôn, ngũ ngôn…). Quả là trói voi bỏ rọ, dám chấp nhận và kiêu hãnh với cái bé hạt tiêu của mình! Nhưng theo tôi, nhìn chung, trên một bình diện và mức độ nhất định, anh đã thành công.
+ Về nội dung tư tưởng và tính chất: Hướng nội sâu, bằng cách mượn một vài hình ảnh thực, tâm trạng, cảm xúc, tình cảm thực để khái quát những ý nghĩa triết lý nhân sinh phong phú, nhiều vẻ mà tác giả từng trải nghiệm, ngẫm ngợi. Những triết lý, triết luận ấy tuy không mới về nội dung, không mang tính tính phát hiện đáng ngạc nhiên; nhưng lại khá mới trong cách diễn đạt, biểu hiện, trong tư duy và hình tượng, ngôn từ nghệ thuật.
+ Những triết lý mà Việt Anh đề xuất và bàn luận, chiêm nghiệm được trình bày bằng hình thức thơ lục bát ngọt ngào, êm ái, chậm rãi, ung dung, dịu dàng, nhẹ nhàng; nhưng khi cần, cũng không kém phần bức xúc, mạnh mẽ. Nhiều câu, bài rắn rỏi, đầy tự tin, khẳng định quả quyết và không bao giờ tư biện, chung chung, mà rất đỗi cụ thể và nhất là được viết ra trong tư duy và tưởng tượng bay bổng và tinh tế, bằng tất cả sự nồng nàn, đắm đuối của tình yêu cuộc sống, con người. Bởi vậy, về cơ bản, nó giản dị, lắng sâu và có thể gây được hiệu ứng sẻ chia, đồng cảm rộng xa nơi người đọc.
Để sơ giản khái quát lý luận, tôi tạm gọi là loại thơ triết tình lục bát bốn câu như một thao tác định danh, phân loại bước đầu. 2 bài Dường như và Sớm mai được chọn bình là cặp thực chứng khá thuyết phục cho những nhận xét trên của chúng tôi.
2.2. Tán thành những bình giải cặn kẽ, thấu tình đạt lý và tinh tế (câu 3 – 4), hình ảnh tim đêm) của Hoàng Dân với bài Dường như, tôi chỉ muốn bạn đọc lưu ý cái nhan đề bài thơ gợi ý tứ rất đỗi mơ hồ, tương đối,… Nhưng những điều cảm nhận và nghiệm suy, kết luận trong từng câu và cả bài lại mang tính xác định khá rõ ràng. Càng về cuối, tính xác quyết càng cao, càng chắc chắn. Đọc kỹ, thấy đó không phải là mâu thuẫn giữa thực tiễn và tư duy chủ quan mà là biện chứng của quy luật giữa chủ quan và khách quan trong nỗ lực vượt thoát và khám phá của chủ thể người sáng tạo.
Thật ra, triết lý tôi tìm thấy tôi, nghĩa là tự mình gắng gỏi tìm cho bằng được cái bản thể, cái tôi cá nhân của mình đã và đang là một trong những vấn đề triết học nhân sinh cơ bản nhất của loài người từ đông tây kim cổ. Ta là ai? đã và vẫn là một trong những câu hỏi triết lý chưa có lời đáp cuối cùng (như ngọn gió siêu hình! (CLV). Trong 36 triết tình, Việt Anh cũng hơn 1 lần trở đi trở lại triết lý này bằng những cách nói khác nhau:
(Giờ tôi lại chẳng thấy tôi chút nào! (Có phải?(16); Ai từ thăm thẳm gọi ta? Hay trong ta, tiếng vọng ra, gọi người?!(Có? Không?)(25); Thôi đành im lặng để hồn thẩm nhau! (Im lặng (35); Phí công rượt bóng, đuổi hoài hồn ta… (Rượt đuổi), (36)…
Ở đây, cái chủ chốt hướng tới không phải là bản chất cái tôi trữ tình của anh mang nội hàm gì mà là phác họa con đường, quy trình, lộ trình trắc trở, gian nan, khó khăn, quyết liệt để tìm cho bằng được cái tôi ấy: thành công, thất bại, nhiều lần (gặp rồi xa, lại gặp rồi, xa thêm) có khi tạm thời chấp nhận thất bại, cũng có khi chán nản, tuyệt vọng (buông tay, chìm tận tim đêm). Nhưng trên hết là sự triệt để dấn thân đến cùng, với nghị lực, nội lực không mệt mỏi, quyết tâm đi tới cùng, tận bờ sát góc (hút cạn đáy thẳm)… thì kết quả tất yếu sẽ là: thành công: tôi tìm thấy… tôi!
Cái mới và hấp dẫn của bài thơ triết tình này chính là ở đó.
Mỗi người, tùy hoàn cảnh, tính cách, điều kiện…không giống nhau, muốn thành sự, tất yếu sẽ phải chọn cho mình những con đường khác nhau đặng tìm kiếm, giải mã cái tôi bản thể của mình; nhưng tinh thần chung của nó, ý chí chung của nó và điều kiện tiên quyết để tới đích thắng lợi, phải chăng chính là con đường mà tác giả Dường như đã mô tả và tự mình trải nghiệm?
Vì thế, xét trên một mặt nào đó, đúng là có thể xem câu thơ cuối cùng của Dường như là một trong những tuyên ngôn nghệ thuật nghiêm túc, chân thành và tự giác, tự nguyện của Nguyễn Việt Anh; một tuyên ngôn của tuổi trẻ thông minh, quả cảm, vượt lên bất hạnh để không ngừng sáng tạo. Về điểm này, tôi hoàn toàn biểu đồng tình với nhận xét của Hoàng Dân.
2.3. Linh hồn của bài Sớm mai, theo tôi, chính là triết lý mang tính quy luật đẫm vị Thiền: sinh – diệt – diệt – sinh… tuần hoàn chu chuyển, vô tận vô cùng…; một trong những triết lý nhân sinh lâu đời nhất. Có sinh thì có diệt; có diệt mới có sinh!... Sinh – dương, diệt – âm; âm – dương, dương – âm chuyển hóa không ngừng tạo nên sự tồn tại, phát triển của đại vũ trụ (thiên nhiên) và tiểu vũ trụ (con người).
Đóng góp riêng của Việt Anh ở bài này không phải là sự khám phá, luận giải sâu thêm về nội dung, bản chất của triết lý dân gian truyền thống mà là ở thái độ, tình cảm trong quá trình thực hiện quy luật đối với bản thân mình. Một thái độ cực kỳ mạnh mẽ, trực diện, trực tiếp, quyết liệt, triệt để, chứa chan niềm tin vào cuộc sống và tương lai,… phù hợp với giọng thơ, nhịp thơ lục bát trẻ khỏe, đầy hào khí, cuồn cuộn như sóng triều, vượt qua lốc bão cập bờ bình yên.
3 câu trên chỉ nói về quá trình hành động hủy diệt bằng điệp ngữ - động từ ghép đập tan cộng với các phụ từ chỉ mức độ và cường độ tuyệt đối mang tính dân dã cao: sạch bách, ráo trọi (phương ngữ Nam bộ), tan tành… Đập tan, phá hết, hủy hết tất cả những gì thuộc về vô tình (tình cảm, thái độ, ứng xử), vô minh (u tối, mê muội, vô tri… thuộc về tri thức, hiểu biết); vô thường (sự biến ảo khôn lường, khó nắm bắt, khó làm chủ của hiện tượng, sự vật, quy luật). Nghĩa là đập tan tất cả những gì cần phải, cần thiết tiêu diệt, không thương tiếc. Không lưu luyến, không trù trừ, nhân nhượng…! mà khó khăn nhất, quyết liệt nhất chính là sự tự hủy diệt bản thân, cá nhân mình (Đập tan tành cả tôi luôn!). Nhưng quá trình đập phá, hủy diệt và tự hủy diệt với những kẻ thù gần gũi và ghê gớm ấy không phải bởi thái độ, hành động cuồng điên, mất lý trí hoặc mê tín, cực đoan, ngu muội bởi những huyễn hoặc giáo điều, giáo lý tù mù, bí hiểm nào đó…mà là những thái độ, tình cảm, hành động quả đoán, bản lĩnh, thông minh trên cơ sở sự hiểu biết, thức nhận, giác ngộ sâu sắc về ngoại giới cùng bản thân, với niềm lạc quan tin tưởng vô bờ vào sự hồi sinh, tái sinh, phát triển không ngừng của sự sống - con người. Nếu mô hình hóa mạch thơ Sớm mai với một đồ thị đường pa rabol hình sin, thì hẳn câu thơ thứ ba này phải nằm trọn trong đoạn cong, vòng trũng xuống đáy, mà từ luôn chính là vị trí điểm uốn chuẩn xác.
Đọc câu kết – câu duy nhất nói về sự hồi sinh, tái sinh, phát triển như 1 chiếc đòn bẩy cứng khỏe, lại chọn đúng điểm tỳ:
Sớm mai, một ngọn xanh rờn… trồi lên!,
tôi chợt bồi hồi nhớ tới đoạn cuối bài Từ thế chi ca (Bài ca giã từ cõi thế (1989), Chế Lan Viên viết không lâu trước khi lên bàn phẫu thuật lần cuối cùng:
Anh tồn tại mãi!
Không bằng tuổi tên, mà như tro bụi,
Như ngọn cỏ tàn, đến tiết, lại trồi lên!
Không biết Nguyễn Việt Anh đã đọc những câu thơ này hay chưa? Nếu đã thì đó là sự chịu ảnh hưởng dễ hiểu của lớp con cháu đối với thế hệ gạo cội ông cha. Nếu chưa thì phải chăng đó là sự gặp gỡ tình cờ lý thú của hai thế hệ làm thơ cách nhau hơn nửa thế kỷ, khi cùng suy tư về một triết lý cuộc đời, trong sự chiêm nghiệm và tưởng tượng nghệ thuật của riêng mình.
Và tôi bạo gan cho rằng cái ngọn xanh rờn (ngọn gì không rõ?!) trồi lên vào buổi sớm mai đẫm sương ấy, có phần trừu tượng mà cụ thể, trẻ trung, đáng yêu và quyến rũ hơn ngọn cỏ tàn đến tiết, lại trồi lên! của tác giả Điêu tàn, Ánh sáng và phù sa*! Nhưng so sánh như vậy liệu có khiên cưỡng và mạo phạm không? Xin tùy bạn đọc xét định.
2.4. Tuy nhiên, đọc trọn chùm 36 bài triết tình lục bát bốn câu khá sắc sảo và độc đáo của Nguyễn Việt Anh, đã thấy thấp thoáng sự trùng lặp chính mình trong những bài thơ, từ cách lập ý, dựng tứ đến hình ảnh, câu chữ. Đặc biệt, người đọc chưa hề tìm thấy một triết lý nào, dù đơn giản, nhỏ bé mà thiết thực là kết quả của những suy nghiệm, phát hiện riêng của chính người đi tìm chân lý và người thơ khái quát triết lý. Ở đây, hầu như Việt Anh mới là người được/bị nếm trải, phát hiện lại và minh họa khéo một số triết lý thông thường (cần thiết) bằng thơ lục bát ngắn… mà thôi!
Tôi hiểu, điều đó là vô cùng khó khăn. Phải có thời gian, phải tích lũy và tư duy, nghĩ ngợi, trăn trở không ngừng… may ra! Nhưng tôi vẫn muốn kỳ vọng nơi cây bút trẻ đặc biệt này; vì tôi luôn tự hào và tin tưởng ở tuổi trẻ, người trẻ; vì tôi cũng đã có một thời trẻ tuổi mơ mộng và say mê, một thời vang và bóng… đã xa mờ!/.
* Bài thơ thứ 3/36; chùm Triết tình lục bát bốn câu của NVA (7 – 2015).
* Tên các tập thơ của CLV.
Trèm, 8 – 8 – 2015. ĐV
III. TRIẾT LÝ: NẾU TÌNH CỜ!...
(Bình bài Đừng ngạc nhiên)
Song bình 2: HOÀNG DÂN – ĐƯỜNG VĂN
1
Đừng ngạc nhiên, nếu tình cờ,
Gặp nhau, anh chợt hững hờ, lạnh tanh!
Ấy, anh làm tổn thương mình,
Những mong tự bảo vệ mình, trước em!*
Từ nếu, ngay trong câu mở đầu đã khiến tôi không thể không liên tưởng đến một giả định mang tầm nhân loại: “Nếu trái đất bằng quả cam thì tôi sẽ bỏ nó vào… túi áo!”. Đúng vậy! Chữ “nếu” có thể biến mọi người khuyết tật trở nên lành lặn, biến mọi kẻ đói cơm rách áo trở thành no đủ, cao sang…
Nhưng Đừng ngạc nhiên, nếu tình cờ… thì quả hơi lạ!
Thứ nhất: tình cờ gần như là một hằng số của mọi quan hệ trong cuộc đời này. Ví như, tình cờ học chung một lớp thì thành bạn học, tình cờ làm chung một nghề, thành đồng nghiệp, tình cờ cùng đi một đoạn đường, thành đồng hành… Nhiều lắm! Vô kể!... Có thể nói, cái tình cờ vĩ đại nhất chính là việc hai người dưng bỗng nên vợ nên chồng!...
Thứ hai: có cái tình cờ thoáng qua và cũng có cái tình cờ vĩnh cửu. Mỗi cái tình cờ có một vẻ đẹp riêng, không thể so sánh. Thế nhưng, trong câu thơ này, thực ra chẳng có cái tình cờ nào cả! Bởi sự thật, nó chỉ mới ở dạng giả định “nếu”, trong suy tư của người viết mà thôi!
Chỉ là giả định mà chủ thể trữ tình vẫn chuẩn bị kĩ lưỡng một tâm thế:
Gặp nhau, anh chợt hững hờ, lạnh tanh!
Đối tác của cuộc gặp nhau này là ai? Bạn bè, người yêu cũ hay vợ cũ…? Tôi cũng chỉ giả định 3 đáp án. Bởi trong thực tế cuộc sống, nếu là người mới quen biết thì chưa có đủ bề dày của “lịch sử quan hệ” để hững hờ, lạnh tanh! Lại nữa, chủ thể trữ tình xưng “anh” và gọi đối tác là “em” thì khả năng nghiêng về hai đáp án “người yêu cũ” hoặc “vợ cũ” có thể sẽ phù hợp với văn cảnh chăng? Tuy nhiên, trong trường hợp này, người yêu cũ hay vợ cũ không quan trọng! Điều quan trọng là thái độ “từ chối” nhìn nhận một mối quan hệ vốn đã từng gắn bó thân thiết. Từ chối như vậy là rất đau lòng! Đau lòng nhưng không thể làm khác được! Từ đó này sinh bi kịch! Một trong những bi kịch tình ái muôn màu muôn vẻ của con người.
Vì sao có bi kịch ấy? Thật đơn giản:
Ấy, anh làm tổn thương mình
Những mong tự bảo vệ mình, trước em!
Thật đau đớn! Phải làm tổn thương mình tức là phải gồng mình lên để đeo một bộ mặt khó coi (hững hờ, lạnh tanh) trước một đối tác mà lẽ ra mình phải nồng nàn vồ vập! Để làm gì? Để hi vọng tự bảo vệ mình trước một đối tác mà mình từng cồn cào thương nhớ, cho dù trong nỗi nhớ thương ấy có cả ngọt ngào và đắng cay! Đây là một nỗi đau mà những ai chưa từng trải nghiệm thật khó đồng cảm và chia sẻ! Bởi nó khuất lấp trên bề mặt ồn ào náo động của cuộc mưu sinh hối hả; nó lặn rất sâu trong tâm hồn chủ thể trữ tình; nó vô hình vô ảnh và luôn mấp mé bên bờ vực hư vô…
Rốt cuộc, “nếu” gặp em, “anh” có tự bảo vệ mình được không? Và “nếu” tức là chưa hề có một cuộc gặp nhau nào diễn ra cả! Vậy, nó là hi vọng hay ảo vọng? Ước mơ hay giấc mơ? Mơ lành hay ác mộng?... hở Giời?!...
Thạch Bàn, 8.8.2015. HD
2
2.1. Triết lý toát lên từ Đừng ngạc nhiên! Nói một cách đầy đủ, theo ý tôi, là một trong những triết lý tình yêu phổ biến nhất, triết lý của những mối tình đơn phương đắng cay, bất hạnh và dang dở suốt đời… Đó là triết lý – tâm lý khởi phát trong vô vọng triền miên, theo công thức: A yêu B; nhưng B lại yêu C và C lại yêu D…! Những cuộc tình yêu lòng vòng đuổi bắt tay ba, tay tư… rốt cuộc, chẳng ai có hạnh phúc cả! Vì ai cũng ngập chìm trong khắc khoải, cô đơn, hi vọng và tuyệt vong, lại hi vọng chảy bỏng, âm ỷ khôn nguôi, chỉ đau đáu một khao khát, ước nguyện:
Kiếp này đã (trót) dở dang nhau/Thì xin kiếp khác, duyên sau lại lành! (ca dao? Truyễn Kiều?)
Kiếp khác là kiếp nào?! Chỉ có giời mới biết! (Mời đọc tham khảo bài thơ khá nổi tiếng Đơn phương của Phạm Đức:
Gần nhau mà chẳng yêu cùng?/Đơn phương, tôi cứ thủy chung một mình./Trái tim tôi vẫn để danh/Cho em – người vốn vô tình với tôi!*).
Tôi nghĩ, đó là một giả định nhức nhối, hàm chứa ý vị triết lý cao, đặt trong một tình huống ngẫu nhiên (tình cờ). Cả bài là tâm trạng và suy tưởng của nhân vật trữ tình anh, trong cái tình huống ngẫu nhiên, trớ trêu mà nghiệt ngã và rất có khả năng có thật đó.
Nhưng cũng hoàn toàn có thể tình huống tình cờ ấy không bao giờ xảy ra; thì đây lại là một cách giãi bày tâm trạng, tâm tư, khát vọng tình yêu một cách cùng bất đắc dĩ, tiêu cực, một cách cố tự lên gân, cường điệu để buộc người mình yêu phải hiểu theo chiều ngược lại và coi đó là sự hiển nhiên phải thế trong cái ngẫu nhiên đa sự, vô tình đa đoan của cuộc đời dâu bể.
Lý do của hành vi ứng xử khá độc đáo nhưng không mới mẻ: anh tự làm tổn thương mình để bảo vệ mình, trước em, được giải thích cho thái độ kỳ quặc, bất lịch sự… trên. Như thế, tình huống và thái độ, hành vi giao tiếp là kết quả; còn lời giải thích - thanh minh mới là nguyên nhân cốt lõi. Kết hợp lại, làm nổi lên 1 triết lý tình yêu một phía – đơn phương chân thành, thủy chung và đầy tự trọng.
2.2. Thực ra, trong thực tế, anh thiếu gì cách để thể hiện mình, bảo vệ lòng tự ái, tự trọng, sỹ diện của mình, trước sự thờ ơ, lạnh lùng của em. Nhưng anh đã chọn cách ấy như một phản ứng tâm lý tất nhiên, như một cách tự an ủi bản thân. Hơn thế, nó còn le lói niềm tự hào bởi tình yêu cô độc, vô vọng của mình.
Phải chăng, đó là cũng là tâm trạng:
Dẫu lìa ngó ý, còn vương tơ lòng/Nhân tình nhắm mắt chưa xong/Biết ai hậu thế khóc cùng Tố Như?! (Tố Hữu: Kính gửi cụ Nguyễn Du (1965).
Những chàng trai, những người đàn ông chân chính trên thế gian này trong tình yêu, dường như đều chấp nhận sự thiệt thòi, sự hy sinh về phần mình một cách đau khổ mà cao thượng, đau thương mà cao ngạo… như thế. Bản chất của triết lý tình yêu này là sự hy sinh bản thân vì người mình đã trót yêu… đến chết! Đáng trọng, nhưng cũng đáng thương biết bao! Nhưng có lẽ nó (triết lý ấy) không còn phù hợp với triết lý tình yêu thời @ thế kỷ 21 này chăng?! Bởi nó quá lãng mạn xa vời và hình như hơi sến, nhuốm màu sắc cải lương?!
2.3. Về câu chữ, vần điệu, tôi vẫn hơi tiếc vì sự lặp vần mình ở 2 câu 3 – 4. Nếu thay mình (tự bảo vệ mình) bằng tình (với hàm nghĩa: tình yêu của mình), thì sao nhỉ? Ý thơ của tác giả liệu có còn được giữ nguyên như cũ?... Dù sao, đó cũng chỉ là 1 gợi ý nho nhỏ về bếp núc công việc mà tôi muốn gửi đến Việt Anh, để tùy anh quyết định./.
* Bài số 17/36 (chùm thơ đã dẫn);
* Dẫn theo sách: Phạm Đức – một hồn thơ nhân hậu và tinh tế. Nguyễn Việt Anh sưu tầm và biên soạn. NXB Thanh niên, 2015; tr. 41).