DÌ TÔI
Kính tặng Dì Lê Thị H.
và các em M, T, T, L cùng các cháu!
Chồng dì: chú Tê, ngõ Tắc*,
Hận nghèo, đăng lính Com măng…*
Quét càn Việt Minh, mạn ngược,
Lìa đời, sau bốn tuần trăng!...
Cô du kích trẻ xóm Đông*
Chưa 20,… đã góa chồng!
Cải tên Hiền thành Thắng Lợi!
Sớm chiều, bươn bải việc chung…
Xung phong phụ trách thiếu nhi,
Nữ đội viên Đội Cải cách.*
Tiểu liên lách cách sau vai,
Bảo vệ trường đấu*, nhất oai!
Trèm quê khánh thành nhà máy:
Bê tông đúc sẵn đầu tiên.
Dì làm công nhân xưởng Sắt,
Theo ca, vất vả ngày đêm…
Rồi… một chiều đông năm Dậu*,
Dì đi bước nữa…, ngượng ngùng!
Dượng rể: chú Trương* tập kết,
Hơn gần chục tuổi!... càng thương!
Ở riêng, vợ chồng chân chỉ,
Việc nước, việc nhà… bền bỉ.
Bốn con lít nhít, lau nhau,
Ăn học, chăm lo… cũng bí!
Được cái tính dì vui, hóm,
Ào ào như sóng Hồng giang.
Sông Cái cũng còn quanh khúc,
Chi mà ủ rũ, rên, than!...
Dượng Trương, tính cũng giống dì:
Trọng vợ, chiều con, củ mỉ,
Kiệm cần, lầm lụi, chỉn chu,
Buồn vui, nói cười… rủ rỉ…
… Thống nhất, dượng - dì vô Nam,
Dựng nhà gần ga Nha Trang.
Hằng năm, dăm lần ra Bắc,
Viếng thăm hầu khắp họ hàng…
Và thời gian… lặng lẽ trôi…
Mấy chục năm rồi, dì nhỉ!?
Gió mưa, lên xuống phận đời…
Lấy chồng thiên hạ, … xa xôi…!
Mẹ, anh, chồng… thành thiên cổ!
Dì cũng về hưu, trong nớ…
Chiều chiều, ra ngồi ngóng biển,
Nhớ quê, sùi sụt, nào nguôi!...
… Giỗ Bà, năm nay quạnh vắng!
Bâng khuâng, dằng dặc nhớ dì.
Mẹ tôi thoàng thi nhắc nhỏm:
- Bao giờ dì mày lại ra?!...
Chị - em: ngoại bát, cửu thập,
Cách vời: người Nam, kẻ Bắc,
Chênh chao, gần đất xa trời;
Ai tường rủi may, bất trắc?!
Thương, lo, trĩu nặng, đầy … vơi…!
Những ngày chảng hun chảo lửa,
Ngẫm ngùi, con xót, mẹ ơi!
Ngàn trùng, đằng đẵng… dì ơi!...
* Dì ruột tôi, cụ Lê Thị H, tức L. sinh năm 1932, hiện ở với các con cháu tại thành phố Nha Trang. * Họ - tên riêng của dì, chú, đã được thay đổi. * Xóm Ngõ Tắc (nay là TDP Đông Sen, phường Thụy Phương); * Tên một sắc lính ngụy thời kháng chiến chống Pháp. * CCRĐ (1955 – 1956); * Trường, (bãi, nơi) đội CCRĐ phát động quần chúng nông dân nghèo đấu tổ địa chủ, cường hào, phản động, gian ác; * Đinh Dậu (1957); * Chú rể họ Trương – cán bộ miền Nam tập kết (1954), ngành Đường sắt. * Nhà máy Bên tong đúc sẵn Trèm được xây dựng năm 1959 – 1960 (?). * Kỵ nhật bà ngoại Nguyễn Thị NG. 2 tháng 6 âm lịch.
Sáng 18 – 7 – 2015. ĐV
10. (2). BÀ TÔI
Ngón chân Giao Chỉ bà tôi
gioãng cong như cánh chim trời đang bay;
Theo trâu, lội nát xá cày,
Ba Đừng, Cửa Trẹm*, những ngày mưa sa.
Việc đồng thôi, lại việc nhà,
73 năm lẻ*, chợ xa, chợ gần.
Bà Trưởng* nổi tiếng tảo tần,
Trong êm, ngoài ấm, ân cần trước sau.
Mẹ chồng thương quý con dâu
khác nào con ruột, mặc dầu thị phi!
Đích tôn Bòi Tạo*, một khi
đã xin là được! thầm thì: - Bà ơi!
Giẫm lên quạt, bế rong chơi:
Đông Chi, Điếm Đại, mấy hồi ấp iu.
- Mai này học giỏi, cháu yêu!
Làm nuôi bà nội lắm điều cậy trông…
Cháu học Xuân Đỉnh* chưa xong,
Vội chi, bà bỏ ra đồng Gò Cao?!
Ngước lên di ảnh, nao nao,
Vành khăn quấn vội, mắt dào yêu thương!
Đời 17 – cháu Văn Đường*,
Na, Su, San, Pháo, Tễu Dương* quây quần.
Một đàn chắt, chút thành tâm
lạy Kỵ Tổ Tỷ*, lâm râm trước hè.
Đường Văn khắn sếp, áo the,
Nhớ thương bà nội, lệ nhòe quanh mi!
Trải lòng, cho gió cuốn đi*,…
Tre già măng mọc, khắc ghi ơn Bà!
* Bà nội tôi: cụ Nguyễn Thị Tơ (1893 – 1966), người xóm Đông Quan (TDP Đông Sen, phường Thụy Phương, ngày nay), lấy ông nội Nguyễn Văn Thiếp (Nhỡ) - (1893 – 1964) - Trưởng tộc Nguyễn Đại Tôn 5 chi làng Trèm – Thụy Phương, nên vẫn được gọi là cụ bà Trưởng Nhỡ (họ). Cụ bà có cặp ngón chân cái rất đặc biệt, đích hậu duệ của phụ nữ Giao Chỉ cố đại, gioãng cách ngón chân trỏ khá xa, như cánh cung. * Tên những xứ đồng làng Trèm. * Tên cúng cơm của tôi hồi nhỏ. * Tôi học cấp 3 (THPT) trường Xuân Đỉnh (1963 – 1966). * Theo tộc phả họ Nguyễn, tôi thuộc đời thứ 17. * Tên các cháu nội của tôi (đời thứ 19). Cụ bà tôi đối với đời các cháu là Kỵ Tổ Tỷ (đời thứ 15).* Ý ca từ Trịnh Công Sơn: Để gió cuốn đi!
18 – 20 - 7 – 2015. ĐV