Nhân kỷ niệm 20 năm ngày mất của PGS. Trần Đình Hượu (26/12/ 1926 12/2/1995), một trí thức lớn với tầm ảnh hưởng sâu rộng, Tuần Việt Nam trân trọng giới thiệu bài viết của GS.TS.Trần Ngọc Vương, một trong những người học trò thân cận của ông.“Bất phùng thời”
PGS. Trần Đình Hượu sinh trưởng trong một gia đình nhà Nho ở làng Võ Liệt, huyện Thanh Chương, Nghệ An. Năm 1949, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương và sau đó được cử đi học hệ dự bị của Đại học Kháng chiến.
Mùa thu 1959, ông được gửi đi học tại ngôi trường danh tiếng thế giới, Đại học Tổng hợp Matxcơva (MGU), chính thức trở thành một trong những nghiên cứu sinh triết học thế hệ đầu tiên của nước Việt Nam mới kể từ sau năm 1945.
Nhưng tác động tai hại của sự phân liệt trong hệ thống XHCN diễn ra khiến việc đào tạo đội ngũ các nhà khoa học này cho Việt Nam gặp rất nhiều sóng gió. Triết học được đồng nhất hóa với lý luận chính trị, là ngành học bị ảnh hưởng nặng nề nhất. Hầu như tất cả nghiên cứu sinh, rồi tiếp đó là sinh viên, trong một vài năm (1963- 1965) lần lượt phải “hồi hương”.
|
PGS. Trần Đình Hượu |
Với Trần Đình Hượu, cuộc trở về trước thời hạn bất đắc dĩ ấy còn bị đèo thêm một định kiến khác. Đã xuất hiện sự chê trách rằng tại sao ông sang Liên Xô lại để nghiên cứu về triết học cổ đại Trung Quốc, mà không phải công trình của các học giả mácxít Trung Quốc?
Ông đề nghị được chọn cơ quan công tác mới là trường Đại học Tổng hợp, và được phiên chế về khoa Ngữ Văn, do khi đó trường chưa có khoa Triết, và giảng dạy 30 năm cho đến khi về hưu năm 1993. Như bất cứ nhà triết học chân chính nào khác, ông kiên trì những nguyên tắc “mang tính tối hậu”, và những nguyên tắc đó trong hầu hết những tình huống cụ thể, lại níu kéo, giữ ông lại với một sự lựa chọn hết sức khó khăn: chấp nhận tình trạng “bất phùng thời” của mình.
Thừa kế tinh thần “tự nhiệm” của các nhà nho chí sĩ đầu thế kỷ, người cộng sản – nhà khoa học Trần Đình Hượu đặt ra cho mình nhiệm vụ hiểu lại cho đúng, cho sâu, trên một tinh thần khách quan hóa triệt để mà K.Marx đã tuân thủ khi nghiên cứu chế độ tư bản, đối với toàn bộ những gì lên quan đến lịch sử dân tộc và lịch sử của các quốc gia khác trong khu vực.
Ông hy vọng phát hiện được những yếu tố mang tính quy luật nhưng biểu hiện một cách đặc thù, nghĩa là mang tính “cụ thể - lịch sử” của sự vận động tiếp tục của xã hội Việt Nam từ quá khứ qua hiện tại đến tương lai. Một nhiệm vụ như vậy ở các nhà cách mạng thế hệ trước ông chưa thể đặt ra và giải quyết triệt để do tính quy định khách quan của hoàn cảnh.
Năm 1966, cái gọi là cuộc “Đại Cách mạng văn hóa vô sản” nổ ra ở Trung Quốc kéo dài ngót 10 năm không thể nói là không gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến Việt Nam. Ở trường Đại học Tổng hợp Hà Nội vào thời điểm đó vì thế dần dà xuất hiện những sự bất đồng tư tưởng ngay giữa các nhà khoa học và giữa các nhà quản lý, chỉ đạo khoa học, sâu sắc đến mức phải “đưa lên trên”.
Phái chủ trương đẩy mạnh công tác đào tạo chuyên môn, đặc biệt quan tâm đến chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học, bị chụp cho một cái mũ là phái “thiên tài chủ nghĩa”, “chuyên môn thuần túy”.
Trần Đình Hượu bị ngầm quy kết là “trùm tư tưởng” của cả phái “chuyên môn thuần túy”. Kể từ đó cho đến tận năm 1981, tức là giai đoạn sung sức nhất trong đời của một nhà khoa học, tên tuổi ông không được xuất hiện trên bất cứ ấn phẩm nào có tính “chính thức”. Và tình trạng đó vẫn được tiếp tục cho đến tận thời điểm 1985 – 1986. Trong tình thế như vậy mà năm 1981 ông được xét phong Phó Giáo sư thì đã là cả một sự “ưu ái”.
Tính lại, thời gian nhà khoa học có được sự bình ổn về tâm lý để có thể yên tâm sáng tạo và công bố những sáng tạo phẩm, thì chỉ được trên dưới 10 năm (tính đến khi ông mất, năm 1995 -TNV), tức chỉ có thể làm khoa học lúc bất cứ ai đó khác cũng đang chuẩn bị về hưu.
Giáo sư – Nhà giáo nhân dân Nguyễn Kim Đính, một trong những người bạn quen biết với ông đã hơn 50 năm nay, vào thời điểm ông qua đời đã ghi lại những hồi ức cảm động. Xin được dẫn ra đôi lời: Trong suốt cuộc đời, “Anh thuộc loại người ít bị chi phối bởi những thứ “mốt”, những thứ “thời thượng” ồn ào níu kéo. Là con người tôn trọng mối quan hệ giữa “danh” và “thực”, anh không dễ dàng chấp nhận những gì áp đặt, khiên cưỡng không phù hợp với thực tế”...
Đến hiện đại từ truyền thống
Nhà khoa học, triết gia cộng sản Trần Đình Hượu đã được giao nhiệm vụ một lần từ rất sớm, vào thời trai trẻ, để rồi tự mình biến nó thành bổn phận chung thân: góp phần xác định, chính xác hóa con đường mà đất nước sẽ và phải đi tới trong quỹ đạo hiện đại hóa chung của thế giới. Từ một giác độ nhất định, nhiệm vụ đó cũng có nghĩa là phải thực hiện việc nghiên cứu các học thuyết mang tính triết học - ý thức hệ đã từng tồn tại, tiếp nối lẫn nhau và để lại những kết quả trong lôgích khách quan của sự vận động của lịch sử quốc gia - dân tộc.
Trong các công trình của ông, có thể nhìn nhận sự chi phối của hai xác tín mang tính tiên đề: 1.- xác tín về tính có quy luật của mọi quá trình vận động của lịch sử và 2.- xác tín về một sự hướng đích theo nghĩa tốt đẹp hơn, tiến bộ hơn, hoàn thiện hơn (bởi niềm tin vào tiến hóa luận) của các quá trình ấy. Nhưng với tư cách là nhà tư tưởng, nhà khoa học, thì việc làm sáng tỏ tính “cụ thể - lịch sử” của các quá trình ấy mới là yêu cầu khoa học thực thụ mà ông phải tự đặt ra cho mình.
Thành tựu nổi bật đầu tiên của Trần Đình Hượu thể hiện ra trước hết trong các công trình nghiên cứu lịch sử tư tưởng, lịch sử triết học phương Đông nói chung, nghiên cứu về Nho giáo nói riêng.
“Phủ định cái gì thì bị chính cái đó quy định và ràng buộc”. Rõ ràng rằng nếu không hiểu đúng và sâu sắc về Nho giáo, chúng ta cũng không thể xác định chính xác sẽ tiến hành xây dựng chế độ xã hội mới và kiến tạo nên những nguyên lý tinh thần xã hội mới từ đâu.
Xuất phát từ nhu cầu “nhìn vào thực tế một cách lịch sử, hoàn chỉnh, rõ nét”, phải ý thức về nội dung, vị trí và chức năng của Nho giáo trong những lĩnh vực, những bình diện khác nhau, Trần Đình Hượu nhận thấy việc nó tồn tại và phát huy tác dụng trong những điều kiện cụ thể - lịch sử của xã hội Đông Á đã khiến nó gây ra những tác động toàn diện theo những cách thức hoàn toàn đặc thù.
“Nho giáo đã bảo vệ chế độ phong kiến và cơ sở của chế độ phong kiến là chế độ địa tô, giai cấp địa chủ. Điều đó thì không cần bàn cãi. Nhưng ở đây thường có sự đồng nhất, không chú ý đến những nét khác biệt giữa chế độ phong kiến ở phương Đông và chế độ phong kiến ở phương Tây…”.
“Xem xét Nho giáo trong trạng thái độc lập tương đối với thực tiễn chính trị của mô hình nhà nước chuyên chế, không đồng nhất hóa một cách dễ dãi nhà nước chuyên chế “ Đông phương” với mô hình cấu trúc và lịch sử của chế độ phong kiến nói chung, nỗ lực để biện biệt những nét đặc trưng của Nho giáo qua các thời kỳ lịch sử nhưng lại cũng cố gắng tìm ra và giải thích lý do sự tồn tại của những yếu tố “bất biến”, điều khiến cho “sự vật vẫn là chính nó mà không phải là cái khác” - đó có thể coi là những đóng góp, những thành tựu nghiên cứu mang tính lý thuyết nổi bật đầu tiên mà Trần Đình Hượu mang lại cho nền học thuật nước nhà.
Trần Đình Hượu cơ hồ tránh bàn về vấn đề “phương thức sản xuất châu Á”, một vấn đề gai góc và từng gây bất đồng trong nội bộ các nhà triết học mác xít. Nhưng chắc chắn ông cũng đã suy nghĩ nghiêm túc về “những đặc thù châu Á, đặc thù phương Đông” trong thực tế và những suy tư theo hướng đó ám ảnh ông nhiều thập kỷ.
“Cùng là có những đặc trưng chung nhưng một phương thức sản xuất nào đó ở từng nơi, hình thành theo những con đường cụ thể khác nhau, trải qua những chặng đường, gặp những tình thế làm biến chuyển giai đoạn khác nhau. Trong nó tồn tại những quan hệ kinh tế, xã hội cụ thể, đặt ra những vấn đề chính trị, tổ chức xã hội, pháp quyền, văn hóa tư tưởng cụ thể, làm cho cuộc sống diễn ra khác nhau, con người buộc phải suy nghĩ khác nhau”. Có lẽ khó mà không đồng ý với ông về những suy nghĩ nghiêm túc và kiên định về nguyên tắc ấy.
Hàng loạt những đặc điểm quan trọng của cái gọi là “chế độ chuyên chế phương Đông” trên cơ sở sử liệu Trung Quốc, Việt Nam và phần nào từ sử liệu của các quốc gia “đồng văn” khác đã được ông tìm hiểu, nghiền ngẫm để khái quát hóa lên. Nhận định của ông về Nho giáo với tư cách là hệ tư tưởng chỉ gắn bó chủ yếu với phương diện quan liêu, mà không phải với toàn bộ hay bất cứ biến thể nào của chế độ chuyên chế là một phát hiện có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng để tìm tới thực chất của Nho giáo trong quỹ đạo chính trị - xã hội của nó.
Chưa kịp thực hiện một công trình có hệ thống về lịch sử và cấu trúc học thuyết Nho giáo, đó là một trong những điều áy náy lớn mà Trần Đình Hượu bộc lộ những năm cuối đời. Dù sao, với những gì đã làm, (như ông diễn đạt, là “cắm một số tiêu vè”, “nêu ra và phân tích một số hiện tượng, gắng nhìn từ nhiều phía để hình dung Nho giáo như nó tồn tại thực, nêu ra một số nhận xét, một số nghi vấn”, đồng thời giải mã cái “gốc tích Nho giáo” của nhiều hiện tượng trên nhiều bình diện khác nhau của xã hội Việt Nam, xã hội Đông Á thời cận hiện đại), ông càng ngày càng được các thức giả cả trong lẫn ngoài nước ghi nhận là chuyên gia hàng đầu ở Việt Nam về đối tượng nghiên cứu phức tạp này.
Là nhà nghiên cứu triết học và lịch sử tư tưởng, tự đòi hỏi và xác lập cho mình thói quen tư duy mang tính lý thuyết liên tục, nhưng những kết quả cụ thể thể hiện trong các công trình, các bài viết chủ yếu của ông cũng thấm đẫm tinh thần phục vụ thực tiễn.
Điều tôi vừa nói sẽ được chứng thực dễ dàng khi nhìn vào tên các công trình lớn nhỏ của ông : “Nho giáo và Nho học ở Việt Nam, vài vấn đề về đặc điểm và vai trò của nó trước thực tế phát triển thời cận – hiện đại”; “Thử suy nghĩ theo hướng khác : đi con đường thích hợp với thực tế phương Đông lên chủ nghĩa xã hội”; “Vài điểm xuất phát cho công cuộc mở rộng dân chủ trong xã hội ta”;...
Tính chất độc lập cao độ trong tư duy cá nhân khiến “tính thực tiễn” trong các công trình nghiên cứu của ông rất thường xuyên lại là những nhận định, những lập luận, những giả thiết dễ va chạm, xung đột với “lẽ phải thông thường”.
|
Bìa cuốn sách Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại của PGS. Trần Đình Hượu |
Sự uyên bác đích thực
Tôi muốn nói thêm đôi điều về phương pháp suy nghĩ và rộng hơn, phong cách khoa học của Trần Đình Hượu.
Ngót 20 năm gần gũi với ông và có lẽ suốt đời vẫn lưu giữ những ảnh hưởng của ông. Trong khuôn khổ bài viết này, tôi chỉ muốn đề cập tới những gì tôi coi là đặc sắc nhất mà ông từng thực hành và yêu cầu những người là học trò ông cố gắng tuân thủ.
Ai cũng biết, để có thể trở thành nhà khoa học đích thực, nhất là trong các khoa học xã hội và nhân văn, sự uyên bác gần như là một tiên đề. Nhưng sự uyên bác tự nó không phải là chân lý, càng không phải là chân lý tối hậu. Trần Đình Hượu như tôi chứng kiến là người làm việc với ý chí lớn, niềm đam mê lớn. Ông là người đọc nhiều, đọc sâu, hiểu và biết trên một quy mô rất rộng.
Một đòi hỏi có tính nguyên tắc lớn hơn nhiều, rốt ráo hơn nhiều mà ông thực hành và dạy chúng tôi phải thực hành, đó lại là bằng chứng của một phong cách tư duy khoa học triệt để và đích thực: chỉ đưa ra những nhận xét, những nhận định, kết luận hay kể cả giả định, giả thiết khi không có tư liệu có sức nặng đủ chống lại điều đang được đưa ra đó. Nghĩa là, trong phạm vi những tư liệu được sử dụng để khái quát hóa, trong phạm vi của vấn đề đang được đề cập, tư liệu “gốc” phải được biết tới và được “thẩm định” đến mức tối đa. Đó là một đòi hỏi về sự uyên bác đích thực đồng thời là đòi hỏi về một sự trung thực đích thực trong khoa học.
Ai là kẻ tuyên bố mình theo đuổi hoặc theo đuổi được một sự nghiệp khoa học đáng kể và đích thực bất chấp những khó khăn, những ma chiết của hoàn cảnh, đó chỉ là kẻ bẻm mép, múa tay trong bị. Ai là kẻ luôn luôn thành đạt bất chấp hoàn cảnh chỉ có thể là kẻ cơ hội hoặc kẻ đê tiện. Nhưng đầu hàng trước những khó khăn của hoàn cảnh lại chỉ có thể là cách thức ứng xử của những người yếu đuối, bạc nhược.
Trần Đình Hượu rất ít khi công khai bày tỏ thái độ đối với những kiểu người này, đơn giản vì ông xa lạ với họ. Giữa rất nhiều khó khăn đến từ bối cảnh chung lẫn hoàn cảnh cá nhân, phải chịu đựng chúng vừa cay cực vừa pha chút khinh bạc, Trần Đình Hượu vẫn nỗ lực để lưu lại cho hậu thế những chứng tích của một người tư duy, một đời tư duy.
Kết thúc những trang viết này, bên tai tôi như còn vang lên lời dặn dò ân cần của ông “Viết gì thì viết, chỉ đừng viết những điều mà về sau phải mất công sức nhiều để đính chính”. Thoạt nghe thì dễ, ngẫm cho kỹ mới thấy, thực thi được điều ấy, khó làm sao!