LTS: Chào mừng độc giả đã quay trở lại làm việc sau kỳ nghỉ Tết dài. Những bài viết trong dịp Tết của Tuần Việt Nam đã nhận được nhiều ý kiến phản hồi. Theo đề nghị của độc giả, Tuần Việt Nam xin đăng lại để bạn đọc tiện theo dõi và cùng chia sẻ.
Người chết là quân xâm lược nhà Thanh. Người làm giỗ cho họ là những người làm nên chiến thắng thần tốc năm Kỷ Dậu [1789]. Việt Nam Sử lược của Trần Trọng Kim chép: "Hội quân ở núi Tam Điệp ngày 20 tháng chạp năm Mậu Thân [1788], vua Quang Trung nói với ba quân: "Chúng nó sang phen này là mua cái chết đó thôi. Ta ra chuyến này thân coi việc quân đánh giữ, đã định mẹo rối, đuổi quân Tàu về chẳng qua chỉ trong mươi ngày là xong việc. Nhưng chỉ nghĩ chúng là nước lớn gấp mười lần nước ta, sau khi chúng thua một trận rồi tất chúng lấy làm xấu hổ, lại mưu báo thù, như thế thì đánh nhau mãi không thôi, dân ta hại nhiều, ta sao nỡ thế. Vậy đánh xong trận này, ta phải nhờ Thì Nhiệm dùng lời nói cho khéo để đình chỉ việc chiến tranh. Đợi mươi năm nữa, nước ta dưỡng được sức phú cường rồi, thì ta không cần phải sợ chúng nữa".1
Thế rồi, đêm 30 tháng Chạp đánh diệt căn cứ Gián Khẩu, bức hàng căn cứ Hà Hồi. Đêm mồng 4 Tết, bao vây căn cứ chiến lược của giặc ở Ngọc Hồi, đợi cánh quân của đô đốc Long bất ngờ tập kích căn cứ Khương Thượng, hàng vạn lính bỏ mạng, chủ tướng Sầm Nghi Đống treo cổ tự vẫn, sáng mồng 5 Tết Kỷ Dậu, Quang Trung tổng tấn công Ngọc Hồi. Quân Thanh bị động, thua chết hàng vạn, phần lớn các tướng bị giết. Tôn Sĩ Nghị không kịp mặc áo giáp lên ngựa tháo chạy, vượt qua sông Nhị Hà rồi hạ lệnh cắt cầu khiến quân Thanh rơi xuống sông chết rất nhiều, khiến dòng sông bị nghẽn dòng chảy. Trưa mồng 5 Tết, Quang Trung tiến vào thành Thăng Long sớm hơn dự kiến một ngày!
Hàng vạn xác quân Thanh nằm ngổn ngang, quân dân Thăng Long và vùng phụ cận thu dọn chiến trường đã chôn cất thành 13 gò đống lớn, có đa mọc um tùm nên gọi là gò Đống Đa. Việt Nam Sử Lược lại chép tỉ mỉ: "Về sau bọn khách trú ở Thăng Long làm cái đền thờ Sầm Nghi Đống ở ngõ Sầm Công, sau Hàng Buồm, nữ sĩ Hồ Xuân Hương có vịnh bài tuyệt cú rằng: "Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo, Kìa đền Thái thú đứng cheo leo. Ví đây đổi phận làm trai được, Thì sự anh hùng há bấy nhiêu". 2
|
Lễ hội gò Đống Đa được tổ chức mùng 5 tết hàng năm. Ảnh: vctv.vn |
Thế đấy, cái ngõ Sầm Công vẫn còn đấy, chứ không đập bỏ đi, biểu thị một tấm lòng khoan dung độ lượng của một dân tộc vốn từng hứng chịu bao tai họa do bọn cướp nước và lũ bán nước gây nên. Và rồi nụ cười của Bà Chúa thơ nôm khi tình cờ "ghé mắt trông theo" thấy đền thờ tên tướng xâm lược vẫn được gọi là "đền Thái Thú" do đồng hương của y dựng lên, cũng chỉ là sự bỡn cợt cho một đấng "nam nhi" thất trận, mà không thèm luận tội xâm lược cướp nước của y để biểu tỏ thù hận! Đây không là một ngẫu nhiên tình cờ, mà là một ứng xử nhất quán của ông cha ta trong lịch sử. Hãy đọc lại "Đại Việt Thông Sử, Lê Quý Đôn chép lời Lê Lợi: "Việc dùng binh cốt lấy bảo toàn cả nước làm trên hết [toàn quốc vi thượng]. Nay ta đã cho bọn Vương Thông trở về nói với vua Minh, trả lại đất đai cho ta, không xâm lấn bờ cõi ta, đó là điều ta không cần gì hơn thế nữa. Hà tất phải giết hết bọn chúng để gây oán với nước lớn làm gì".3
Xin được gợi thêm một sự kiện về một ngôi chùa có mối liên hệ với những sự kiện nói trên: chùa Bộc. Chùa được xây dựng vào thế kỷ XI, thuộc trại Khương Thượng, lúc đầu có tên Sùng Phúc tự. Chùa bị cháy vào năm 1789 trong trận Rồng lửa do nghĩa quân Tây Sơn tiến đánh đồn Khương Thượng để tiêu diệt quân xâm lược Mãn Thanh. Sau khi tiêu diệt xong quân xâm lược, vua Quang Trung đã ra lệnh cho xây dựng lại chùa Sùng Phúc và đổi tên thành Thiên Phúc tự. Nhưng nhân dân vẫn quen gọi là chùa Bộc. Bộc có nghĩa "phơi bày", nghĩa là ngôi chùa được xây dựng ngay nơi chiến địa mà quân thù chết phơi thây.
Dân tộc này biết chiến đấu kiên cường đập tan mọi cuộc xâm lược, mọi mưu ma chước quỷ của kẻ thù chưa bao giờ dứt bỏ dã tâm xâm lược, biết thường trực nâng cao cảnh giác song cũng sẵn sàng quên đi thù hận để vun đắp cho sự thật tâm hòa hiếu, xây đắp cho tình hữu nghị giữa các quốc gia, nhất là với những quốc gia láng giềng.
|
Ảnh: vctv.vn |
Quả thật, từ những sự kiện vừa dẫn ra ở trên, cần suy ngẫm về nhận định của Pham Văn Đồng "một điều vừa rõ ràng không thể chối cãi được, vừa chứa đựng nhiều bí ẩn trong đêm tối của lịch sử mà chúng ta còn phải tiếp tục phát hiện và phát huy"!4 Sự thật lịch sử có lúc mờ lúc tỏ, song dòng chảy lịch sử là bất tận. Dòng cuộn chảy ấy tạo nên sức mạnh bất diệt của một dân tộc. Thế hệ trẻ Việt Nam phải được hiểu kỹ về dòng chảy bất tận đó, phải được tắm mình vào trong dòng chảy lịch sử để tự hào về ông cha mình bao đời kiên cường, bất khuất và linh hoạt, khôn khéo, mềm dẻo "dĩ bất biến, ứng vạn biến" trong trường kỳ dựng nước, mở nước và giữ nước để trao lại cho thế hệ hôm nay.
Và nếu lịch sử là một nhân tố mà thiếu nó, thì không một ý thức dân tộc nào có thể đứng vững được, thì thường xuyên ôn lại truyền thống lịch sử vẻ vang của ông cha ta là một đòi hỏi của sự phát triển đất nước. Một khi mà ý thức dân tộc bị phôi pha, bị che lấp bởi nhiều lực hút khác thì đó là báo hiệu của sự suy tàn của một quốc gia. Sẽ không thể có sự phát triển bền vững của đất nước nếu thế hệ trẻ Việt Nam hôm nay không biết rõ hành trình ông cha mình đã đi qua, về những giá trị đã được hun đúc, cội nguồn sức mạnh vô tận và là điểm tựa vững chắc cho sự nghiệp dựng nước và giữ nước.
Chiến thắng thần tốc đập tan mấy chục vạn quân xâm lược nhà Thanh nói lên thiên tài quân sự của người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ, đó là một sự thật lịch sử có sức ngân vang mãnh liệt trong tâm hồn Việt Nam. Đồng thời, nếu ngẫm nghĩ thật kỹ, đấy cũng chính là sự bứt phá trong sự vận động tự thân của sức sông dân tộc đưa đến những hợp trội kỳ diệu trong dòng chảy của lịch sử. Cần nhớ rằng, thời đoạn lịch sử thời Lê Mạt vua Lê, chúa Trịnh với phong trào nông dân nổi lên rầm rộ, rộng khắp và kéo dài hàng chục năm "cả đời khốn khổ chua cay, ước sao chỉ được một ngày làm vua", đẩy tới sự đổ vỡ của nhà nước Lê - Trịnh, chuẩn bị cho sự quật khởi của phong trào Tây Sơn, báo hiệu sự khủng hoảng trầm trọng của chế độ phong kiến trên phạm vi cả nước...; đó là thời kỳ rối ren trầm trọng nhất trong lịch sử từ ngày Khúc Hạo công bố "Cương lĩnh dựng nước" năm 906 "chính sự cốt chuộng sự khoan dung giản dị cốt cho trăm họ được yên vui".
Việt Nam Sử Lược chép về thời Lê Chiêu Thống như sau: "Người bấy giờ bàn riêng với nhau rằng: "Nước Nam ta từ khi có đế vương đến giờ, không thấy vua nào hèn hạ đến thế. Tiếng là làm vua mà phải theo niên hiệu vua Tàu, việc gì cũng phải bẩm đến quan Tổng đốc, thế thì có khác gì là đã nội thuộc rồi không?". Khi mà người đứng đầu trăm họ đã hèn nhát nhục nhã như vậy thì hưởng ứng lời kêu gọi của người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ đứng lên đánh giặc cứu nước là điều không có gì phải bàn cãi. Đúng là "sức dân như nước, đẩy thuyền là dân mà lật đổ thuyền cũng là dân" là bài học có tính quy luật của lịch sử.
Sử chép: Ngày 29 tháng 11 năm Mậu Thân [26 tháng 12 năm 1788], dừng chân ở Nghệ An hơn 10 ngày để tuyển quân và củng cố lực lượng, nâng quân số lên tới 10 vạn ! Thử hỏi không có sức dân ấy, không có lòng dân theo về thì làm sao có được chiến thắng thần tốc 6 ngày điệt tan mấy chục vạn binh của Tổng đốc Lưỡng Quảng [Quảng đông và Quảng tây] Tôn Sĩ Nghị? Hãy nhớ lại khẩu hiệu vua Trần Nhân Tông cho ghi lên mũi thuyền khi rút quân về Thiên Trường rồi lại rút quân về Thanh hóa theo đường biển: "Hoan Diễn do tồn thập vạn binh" trong giai đoạn vẻ vang của lịch sử chiến thắng đế quốc Nguyên Mông thế kỷ XIII!
Lịch sử là một sự vận động trong thế tương quan giữa nhiều lực lượng nhằm tìm ra một hợp lực, vạch ra con đường đi của nó. Cái hợp lực tạo ra sức mạnh của một dân tộc, viết nên những trang hào hùng của lịch sử dân tộc, chính là quần chúng nhân dân. Những người theo mệnh lệnh của trái tim đã có mặt đúng lúc, đúng thời điểm cần có họ. "Nâng quân số lên tới 10 vạn" trong mười ngày dừng chân tại Nghệ An của Quang Trung Nguyễn Huệ là nhờ có những người "chân đất" đã biết "theo mệnh lệnh của trái tim đã có mặt đúng lúc, đúng thời điểm cần có họ". Không có điều ấy thì dù là thiên tài cũng phải bó tay. Hoặc đúng hơn, thiên tài chính là đã biết phát hiện , khơi dậy và phát huy được sức mạnh vô tận của khối nhân dân vĩ đaị, người làm nên lịch sử. Biết khơi dậy, nuôi dưỡng và phát huy sức mạnh được khởi nguồn từ mệnh lệnh trái tim ấy chính là bản lĩnh của người lãnh đạo. Không biết điều ấy thì lịch sử đã từng phế bỏ!
Vào ngày "Giỗ Trận" mồng Năm tháng Giêng năm Canh Dần hôm nay, thời điểm cô đặc những sự kiện lịch sử của ý chí và sức mạnh cùng với lòng khoan dung và mong muốn hòa hiếu của dân tộc Việt Nam ta, càng hiểu thêm bản lĩnh Việt Nam và những giải pháp Việt Nam, càng cảm nhận ra những âm vang của lịch sử quả có sức lay động mãnh liệt, sức lay động của bản lĩnh ông cha, sức lay động của bản lĩnh Việt Nam.
______________
Chú thích :
1. Trần Trọng Kim. Việt Nam Sử Lược. tập2. NXBTPHCM.1997, tr.132
2. Trần Trọng Kim. Việt Nam Sử Lược. tập2. NXBTPHCM.1997, tr.134
3. Lê Quý Đôn. Đại Việt thông sử, đệ kỷ, q.I
4. Phạm Văn Đồng. "Văn hóa và Đổi mới". NXBCTQG. Hà Nội 1994, tr. 17