Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

THIÊN TÍNH NGUYỄN BÍNH

Trần Trung
Thứ bẩy ngày 20 tháng 2 năm 2010 5:20 AM
Nguyễn Bính tên thật là Nguyễn Trọng Bính, quê làng Thiện Vịnh (nay thuộc xã Cộng Hoà), huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định trong một gia đình nhà nho nghèo.
Cha Nguyễn Bính - ông Nguyễn Đạo Bình từng dạy học ở quê nhà, tính tình hiền lành , nhân hậu.
Mẹ Nguyễn Bính - bà Bùi Thị Miên vốn xuất thân trong một gia đình tương đối khá giả và có truyền thống yêu nước. Bà sinh hạ được ba người con trai trai: Nguyễn Mạnh Phát (tức Trúc Đường), Nguyễn Ngọc Thụ và Nguyễn Bính.
Bà Bùi Thị Miên mất sớm khi mới 24 tuổi và Nguyễn Bính mồ côi mẹ khi chưa đầy một tuổi. Mấy câu thơ sau trong bài Nhà tôi (1940) như một thứ trích ngang lí lịch với giọng kể buồn buồn xa vắng của một nhà thơ chân quê:

Nhà tôi có một vườn dâu
Có giàn đỗ ván có ao cấy cần
Hoa đỗ ván nở mùa xuân
Lửa dâu tháng tháng lửa cần năm năm
Em tôi là gái mười lăm
Quét sân chạy chợ chăn tằm sớm trưa
Thầy tôi dạy học chữ nho
Dạy dăm ba đứa học trò loanh quanh
Có gì tiếng cả nhà thanh
Cơm ăn đủ bữa áo lành đủ thay
Còn tôi sống sót là may
Mẹ hiền mất sớm, giời đày làm thơ…


Trước khi theo anh lên đất Kinh kì (Hà Nội), Nguyễn Bính có những năm tháng tuổi thơ ở quê nhà - Thôn Thiện Vịnh - quê cha, hay Thôn Vân - quê mẹ (cùng trong huyện Vụ Bản). Làng quê thân thương và nghèo nàn đã để lại những dấu ấn sâu đậm rất đỗi tình nghĩa trong tâm trí Nguyễn Bính, cái làng quê nhỏ bé vùng chiêm trũng - nơi đồng đất trắng trời, trắng nước lại trở thành bóng mơ (chữ của Tô Hoài) trong thơ Nguyễn Bính. Ngoài luỹ tre xanh quê mẹ, bao bủa   quanh năm là nước đồng lai láng trắng xoá. Thế mà, như bù lại, là một không gian vườn tược xanh mùa nào thức ấy với bưởi, cam, đào, mơ, mận… Mặt ao nhà cũng mang sắc lá, sắc hoa của những sen, súng, ấu, lang…
Thế rồi, màu xanh của không gian vườn tược, chẳng biết tự lúc nào đã thấm vào không gian tâm tình - không gian thơ của chàng thi sĩ trẻ tuổi sinh ra từ mảnh đất quê kiểng mà ân tình.
Nguyễn Bính từng tâm tình:

Thôn Vân có biếc có hồng
Biếc trong nắng sớm hồng trong vườn chiều
Đê cao có đất thả diều
Trời cao lăm lắm có nhiều chim bay
Quả lành trĩu nặng từng cây
Sen đầy ao cá, cá đầy ao sen
Hiu hiu gió quạt giăng đèn…


Hẳn là những sắc biếc, sắc hồng và những ao sen, ao cá sớm trở thành cái tố chất tự nhiên trong thơ Nguyễn Bính thấm vào hồn thơ Nguyễn,  chứ không phải chỉ là sự tiếp nhận như những yếu tố thi liệu. Song, theo tôi sẽ là chưa đầy, chưa tới chất chân quê của Nguyễn Bính nếu thiếu đi cái chất duyên tình ỡm ờ mà tình tứ này:

Tôi giồng cả thảy hai vườn cải
Tháng Chạp hoa non nở cánh vàng
                          ….Em đã sang ngang với một người
Tôi còn giồng cải nữa hay thôi.

  Chao ôi! Những cô gái láng giềng, những người hàng xóm cách xa nhau bởi “cái giậu mồng tơi xanh rờn”, những trò trường Huyện “đội đầu chung một lá sen tơ”… làm gì  chẳng thành những cuộc hẹn hò thầm kín. Khi thì ở “con đê đầu làng”. Khi lại ở đoàn hát chèo làng Đặng ngoài chùa Phủ… Tình người ngỡ như cùng gặp gỡ, giao duyên cùng tình trời đất: Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay; Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy; Hội chèo làng Đặng đi ngang ngõ…
Nhà phê bình Hoài Thanh từng nhận xét: Thơ Nguyễn Bính đã đánh thức  con người nhà quê vẫn ẩn náu trong lòng ta. Ta bỗng thấy vườn cau, bụi chuối là hoàn cảnh tự nhiên của ta và những tính tình đơn giản của dân quê là những tính tình căn bản của ta”  (Thi nhân Việt Nam).
Phải chăng sự khởi nguồn góp phần tạo nên thiên tính thơ Nguyễn Bính là sự giao duyên hồn nhiên mà tình tứ giữa chất quê, tình quê và hồn quê trong thơ ông ngay từ “cái thuở ban đầu lưu luyến ấy”. Sự giao duyên như trời phú ấy đã khiến cánh bướm đa tình Nguyễn Bính (ông từng lấy bút danh là Điệp Lang – Chàng Bướm) sớm chập chờn lay động và giăng mắc cái sinh khí nơi thôn hương quê mình. Để từ yêu thương say đắm với bóng quê mà thổi hồn thi sĩ của mình thành bóng mơ trong thơ - thành thứ tình quê hương thương nhiều mà tiếc lắm - từa tựa như cảnh:

Em đi phố huyện tiêu điều lắm
Trường Huyện giờ xây kiểu khác rồi
Mà đến hôm nay anh mới biết
Tình ta như chuyện bướm xưa thôi.
   (Trường Huyện)

Sinh năm con ngựa (Mậu Ngọ - 1918) trong bài thơ gửi chị Trúc (vợ Trúc Đường), Nguyễn Bính nói lời tâm sự của kẻ tha hương:

Em vốn trường dài thân ngựa lẻ
Chị thì sông cái chiếc đò nan
   (Xuân tha hương)

Lời tâm sự nửa như đùa đùa, nửa lại buồn buồn. Bởi thân ngựa lẻ sẽ còn đưa Nguyễn Bính tới những dặm đường xa khắp mọi miền quê đất nước cho bõ cái thân phận giời đày làm thơ, giời bắt làm thi sĩ với hàng loạt thi phẩm cho đời thắm đượm tình quê hồn quê đất Việt.
Bài thơ đăng báo đầu tiên của Nguyễn Bính là Cô hái mơ trên tờ Tiểu thuyết thứ năm - Đây cũng là tờ báo in nhiều thơ Nguyễn Bính nhất thời ấy.
Năm 1937, Nguyễn Bính được giải thưởng thơ của Tự lực văn đoàn - tập thơ Tâm hồn tôi. Cũng từ thời gian này trở đi, Nguyễn Bính viết nhiều - tự sống bằng ngòi bút. Ông thích đi, đi nhiều nơi và đến đâu cũng có thơ. Một chuyến giang hồ lên xứ Lạng có ngay thơ; lên Thái Nguyên hay Phú Thọ cũng thế. Thi sĩ như chợt lượm được những bông hoa rừng xứ lạ:

     Xanh cây xanh cỏ xanh đồi
Xanh rừng xanh núi da trời cùng xanh.

Bài thơ Lỡ bước sang ngang (sau được Nguyễn Bính lấy tên cho một tập thơ của mình) liên tiếp được đăng liền ba kì  trên Tiểu thuyết thứ năm. Nguyễn Bính được nhiều người biết đến bởi giọng thơ giống như ca dao. Bởi, thơ ông còn mang nợ vấn vương với những miền đất ông qua, những nhớ thương và xa cách với những dáng hình người đẹp. Tâm hồn nhạy cảm, đa mang ấy nhanh chóng nổi sóng cảm hứng, nổi sóng đa tình, dan díu, tiếp nhận rồi lại chạnh lòng nuối tiếc phút giây đã qua của những lỡ dở, chia phôi:

Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người
Gió mưa là bệnh của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.

(Tương tư)

Những chuyến đi xa luôn tạo nên những cảm hứng bất ngờ với Nguyễn Bính - nói rộng ra, dường như cũng là của thế hệ văn nghệ sĩ cùng thời với ông. Những chuyến đi ngẫu hứng với bao nỗi buồn vui và cả nỗi cay đắng thân phận. Nhưng cũng như mọi cái, mọi điều được mất trên đời, đều có giá của nó. Những chuyến đi mà nhiều lúc trong lang bạt nghèo túng nhưng bù lại, Nguyễn Bính luôn có thơ trên lộ trình tha hương rong ruổi:

Giời mưa ở Huế sao buồn thế
Cứ kéo dài ra đến mấy ngày
Xa xôi ai nhớ mà thương nhớ
Mà nhớ mà thương đến thế này
   (Giời mưa ở Huế)

Có một điều thật đặc biệt ở Nguyễn Bính là tuy đi nhiều, thích giang hồ nơi đất khách  nhưng hình bóng quê hương luôn trong sâu trí nhà thơ:

Anh về quê cũ thôn Vân
Sau khi đã biết phong trần ra sao
        (Anh về quê cũ)

Nỗi nhớ quê  nhà luôn là điều day dứt trở đi trở lại trong nhiều bài thơ của Nguyễn Bính - nhất là sau này nhà thơ rời đất Bắc (1943) vào Nam Bộ và sống nhiều năm ở mảnh đất phương Nam:

Tết này chưa chắc em về được
Em gửi về đây một tấm lòng
Chao ôi Tết đến em không được
Trông thấy quê hương thật não nùng
   (Xuân tha hương)

Vào những năm 1940 - 1942, Nguyễn Bính liên tiếp cho in  nhiều tập thơ: Lỡ bước sang ngang (1940); Hương cố nhân; Một nghìn cửa sổ (1941); Người con gái ở lầu hoa; Mười hai bến nước (1942). Mọi người từng biết đến một thi sĩ chân quê với chất “hương đồng gió nội” và giờ đây lại tiếp tục nhận ra thêm bút lực dồi dào, sức sáng tạo không ngừng nghỉ của nhà thơ họ Nguyễn.
Ông sống bằng ngòi bút của mình: làm thơ, viết báo, tuy cuộc sống kiểu ấy chẳng mấy ổn định.
Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Nguyễn Bính thuộc trong số anh em văn nghệ sĩ giàu tinh thần dân tộc đã nhiệt tình, hăng hái tham gia vào nhập cuộc. Ông tham gia kháng chiến ở Rạch Giá, ở miền Tây Nam Bộ, ở Đồng Tháp Mười.
Ở chiến khu Đồng Tháp Mười, cùng với một số anh em văn nghệ sĩ khác, Nguyễn Bính tiếp tục làm thơ, viết báo phục vụ kháng chiến; làm mọi việc theo sở trường của mình và đủ thứ việc linh tinh theo yêu cầu của chiến trường. Nhà thơ Bảo Định Giang đã ghi lại những dòng nhận xét ân tình về Nguyễn Bính: “Trong nhiều năm tháng chịu đựng mọi gian khổ, anh đã đi “mút mùa” với Cách mạng cho tới ngày nhắm mắt ở quê nhà và để lại cho đời những tập thơ quí giá”- (Một vài kỉ niệm với Nguyễn Bính).
Năm 1954, hoà bình lập lại ở miền Bắc, Nguyễn Bính trở lại quê, vẫn nồng hậu tình xưa nghĩa cũ, thêm chút bồi hồi của kẻ xa xứ hồi hương:

Đi đã mười năm mới trở về
Tâm tình tràn ngập bước đường quê
Nghe sao náo nức như hồi trẻ
Níu áo theo cha buổi hội hè.

   (Trở về quê cũ)

Có điều giờ đây chàng Điệp Lang - Nguyễn Bính sau nhiều năm tháng xa quê dan díu với kinh thành, với bao miền đất khắp ba miền Tổ quốc, còn vương nợ nhiều với mảnh đất Nam Bộ, miền quê thứ hai của mình. Hàng loạt những sáng tác sau Cách mạng của Nguyễn Bính tập trung nhiều vào chủ đề quê hương, đấu tranh thống nhất nước nhà. Ngay tên những tập thơ, truyện thơ của ông cũng nói lên điều ấy: Ông lão mài gươm (1947), Đồng Tháp Mười, Gửi vợ miền Nam (1955); Nước giếng (1957); Tiếng trống đêm xuân (1958); Đêm sao sáng (1962)…
Những bài thơ viết về miền Nam không phải chỉ dừng lại ở đề tài mang tính thời sự mà với Nguyễn Bính thực sự đã chuyển hoá thành nỗi niềm tâm sự thiết tha day dứt:

Sao đặc trời cao sáng suốt đêm
Sao đêm chung sáng chẳng chia miền
Trời còn có bữa sao quên mọc
Tôi chẳng đêm nào chẳng nhớ em.
        (Đêm sao sáng)

Như thế, sau những năm tháng tha hương với nhiều lí do khác nhau, trở lại đất Bắc, Nguyễn Bính lại có một miền đất để nhớ thương - miền Nam. Trong một bài viết về những kỉ niệm với Nguyễn Bính, nhà văn Chu Văn   đã kể lại:
 “Anh (Nguyễn Bính) hay nói nhất là chuyện miền Nam, những phong tục vùng lục tỉnh, những bữa rượu, những món ăn, những vườn cây hoa trái, những đìa lạch đầy tôm cá… Nói về miền Nam, Nguyễn Bính lờ đờ đôi mắt, nhìn đâu xa lắm, và anh say sưa, hào hứng, rồi đăm chiêu thơ thẩn. Bao nhiêu cảnh, bao nhiêu tình…”