Quan tài gỗ gạo
Chiến tranh biên giới bắt đầu từ Lạng Sơn, Cao Bằng, Lào Cai và chính thức lan đến quê tôi – Vị Xuyên (Hà Giang), mạnh nhất là vào những ngày đầu Hạ. Lúc đó tôi còn bé, chỉ biết chiến tranh từ câu nói sau bữa ăn tối rất vội của bố với mẹ: “Anh phải lên cơ quan”.
Bố đi, nhoáng cái về. Thay cho cờ – lê, tuốc – nơ – vít của một kĩ sư cơ khí hàng ngày, sau lưng đã đeo khẩu súng, loại tiểu liên cực nhanh hay còn gọi là K43 đầy ự đạn. Bố gấp gáp bảo với mẹ: “Em sửa soạn đưa các con vào núi tránh pháo. Anh phải đi đây”.
Bố tôi – một công nhân nhanh chóng trở thành một chiến sĩ. Thế mới biết tinh thần Việt khi có giặc thế nào. Cùng mẹ, chúng tôi chạy thục mạng, nhằm khu núi đá bên Đội 4, chỗ định cư của tướng lĩnh và hậu duệ Vương Chí Sình để trốn. Rồi pháo Trung Quốc cấp tập nã sang.
Thiếu tướng Nguyễn Đức Huy thắp hương tưởng nhớ đồng đội tại nghĩa trang liệt sĩ Hà Giang (tháng 4-2013). (Ảnh: Quân đội nhân dân)
Cũng may xã tôi nằm giữa tầm đạn pháo nên không bị oanh kích và thương vong nhiều. Trong đời, có lẽ thứ không dọa, mà trẻ con vẫn phải biết sợ đấy là tiếng đạn pháo rít trên không. Không biết, không hình dung được nhưng ai cũng sợ. Bọn trẻ chúng tôi khóc thét, đái cả ra quần. Náu pháo được 2 ngày, đói quá chúng tôi lại phải về. Làm lụng, đi học và nhổ sắn trong tầm đạn pháo. Thế rồi quen dần, nhanh chóng thích nghi với tiếng ì oàng suốt ngày đêm.
Nhà tôi lúc đó ở gần Tiểu đoàn 2 của Sư 314. Đây là một thung lũng và nhanh chóng trở thành chỗ tập kết quân của ta. Những xe vận tải quân sự, nhiều nhất là xe có biển số TH ngày đêm lăn bánh. Những chiếc xe quân sự bịt kín lặng lẽ đến, đổ quân xuống, toàn là những bộ đội trẻ măng.
Thời chiến, doanh trại làm không kịp, bộ đội vào nhà dân ở. Hồi đó ngôi nhà gỗ 5 gian của gia đình đầy bộ đội. Bộ đội đến, mắc võng ngủ từ trong nhà, ngoài hiên, thậm chí cả gốc cam. Chẳng có cảm giác chật chội, quân dân nhanh chóng thích nghi và có những bữa ăn chung với nhau.
Đôi ba ngày xe bịt bạt lại đến. Các chú bộ đội trẻ măng vừa đến lại vội vã lên xe. Vài ngày sau những chỉ huy ở nhờ, đưa quân trở về. Chúng tôi hỏi những chú bộ đội mới làm quen thì chỉ nghe thấy những câu nói nhỏ: “Chú ấy mất rồi!”. Mất nhiều hơn còn.
Cách nhà tôi 4km là nơi Trung đoàn phẫu tiền phương ở, nay toàn bộ khu đất ấy trở thành nghĩa trang của thị trấn Việt Lâm. Thỉnh thoảng đi học, chúng tôi ghé vào. Nhà lá, vách liếp nhưng băng ca chồng bằng ca. Những bộ đội bị thương nằm đó, chờ sơ cứu rồi chuyển đi tuyến dưới.
Bộ đội hy sinh nhiều lắm. Gỗ đóng quan tài không đủ, người ta phải chặt cả những cây gạo do Pháp trồng dọc tuyến Quốc lộ số 2 để đóng quan tài. Gỗ ấy dễ mục nhưng chả biết làm thế nào. Mùa xuân, gạo nở hoa, bị đốn làm gỗ hạ huyệt cho lính, rải hoa đỏ ứa máu dọc đường. 6 tháng cao điểm, 3 sư đoàn gom lại không đủ một trung đoàn và là cái để làm nên một nghĩa trang gần 2000 ngôi mộ có tên Nghĩa trang liệt sĩ Vị Xuyên ngày nay.
Nghĩa trang liệt sỹ Vị Xuyên
Ngày ấy, ngôi trường tôi học gần nghĩa trang này. Mỗi tuần, huyện đội cùng trường và chúng tôi lên phát cỏ, thắp hương. Một xe chở đầy hương lên, cả trường chúng tôi chia nhau thắp. Khói hương quạnh quẽ với gió núi cùng tiếng đạn pháo vẫn ì oằng nã từ bên kia biên giới sang.
Ở Hà Giang bây giờ, cuộc chiến đã qua đi đến hơn 20 năm rồi nhưng rất nhiều nhà còn giữ lại những chiếc bể ngầm có cửa rất to. Bình thường thì nó là vật dụng đựng nước. Nhưng nếu chiến tranh nó sẽ trở thành hầm để tránh pháo. Nhà tôi cũng có bể chứa này. Khi xây, gia đình cũng cố đặt vào nơi khuất nhất và có núi đất để che.
Báo chí thời chiến
Hồi chiến tranh biên biên giới xảy ra, đúng lúc báo chí chúng ta đang thiếu lực lượng nhất. Những thông tin cần biết về cuộc chiến này, thắng đâu, thua đâu, Trung Quốc tàn ác thế nào... nhiều người dân ngoài vùng chiến sự và kể cả người dân trong vùng chiến đều rất muốn biết. Nhưng hầu như lúc ấy chúng ta không đáp ứng được.
Lúc này, Báo Nhân dân và Quân đội nhân dân cử phóng viên lên. Truyền hình Việt Nam triển khai sau một chút. Nhưng các phóng sự của VTV vẫn hết sức ấn tượng. Nhiều người nói, 35 năm trôi qua mà vẫn bị ám ảnh bởi những hình ảnh đau thương, hùng tráng và giọng đọc trong các phóng sự của VTV.
Thông cáo của Bộ Quốc phòng đăng trên Báo Nhân dân số ra ngày 20/3/1979
Nhưng bất chấp khó khăn, các báo, đài lớn của đất nước, của địa phương cũng nhanh chóng vào cuộc quyết liệt nhất: Thông tấn xã Việt Nam, Đài tiếng nói Việt Nam, rồi báo Hoàng Liên Sơn…
Nhà tôi ngày ấy ở ngay Trung tâm đầu não của Sư đoàn 356 đóng. Chỉ huy Sư này lúc đó là ông Hoàng Điếm, người Hòa Bình. Ông này to và trắng như Tây, nổi tiếng không sợ Trung Quốc. Hồi ấy, Trung Quốc phao tin ai lấy được đầu tướng Điếm thì sẽ cho cả tỉnh… Vân Nam. Nhưng không ai lấy được.
Tướng Điếm chỉ huy Sư 356, Sư này được Trung Quốc mệnh danh là “anh cả đỏ” vì chúng đã bị 356 quại cho một trận đỏ máu bên Lào Cai. Sau khi các Sư 313, 314… bị thiệt hại nhiều, Sư này đã được Bộ quốc phòng điều sang tăng cường cho vùng phên dậu Hà Giang. Đây là một Sư đoàn đủ, ngoài bộ binh còn có cả tăng thiết giáp và lính phòng hóa.
Tướng Điếm liều mạng và coi thường Trung Quốc lắm. Ông này sống rất giản dị, chỉ thích ăn cơm trắng với cà, và ra trận cũng rất ngông. Ông chọn ai làm cận vệ và liên lạc thì người đấy phải sợ. Vì ông ra trận như lính, nằm hầm, căng tăng dù ra chỉ huy chứ không bao giờ chỉ đạo ở tuyến sau.
Thời ấy, Báo Nhân dân hay Quân đội Nhân dân cử phóng viên lên họ được lo lắng và bảo vệ ác lắm. Có xe đặc chủng chở đi, đến biên giới bao giờ cũng được cẩn vệ cẩn thận. Mỗi lần họ lên, chúng tôi chỉ biết họ qua những chiếc máy ảnh đeo trước cổ. Họ lên rồi về, chắc có bài vở nhưng chẳng bao giờ chúng tôi được đọc.
Dù sao cũng cám ơn người anh cả Liên Xô. Ngày chiến tranh biên giới họ cho và giúp mình nhiều lắm. Cái đói của người dân biên giới chúng tôi hồi ấy nhờ họ cũng phần nào đỡ hơn. Họ viện trợ gạo, thịt, súng đạn cho lính, lính lại viện trợ cho dân.
Tôi nhớ nhất là những thứ gạo sấy của họ (đổ nước vào thành cơm) và những tảng thịt bò đã rim tẩm đủ chất của họ. Đói, vào lính xin, về đổ nước và có tý lửa hâm nóng thịt bò là sống được cả ngày. Ngoài những thứ trên, họ còn cử cả chuyên gia quân sự và đặc biệt là báo chí sang giúp ta viết bài, đưa tin.
Bài viết của họ được dịch, được đọc rất nhiều trên hệ thống loa phát thanh trực tuyến của quê tôi. Nghe thích và căm hận quân thù lắm. Trong các bài ấy tôi nhớ nhất là hai bài với tít dẫn: “Lò vôi thế kỷ” và “Cối xay thịt”. Hai bài này được đọc trên hệ thống loa phát thanh vào mỗi buổi sáng, khi chúng tôi chân trần đi học trong tầm đạn pháo.
Cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc đã qua đi 35 năm. Cho đến giờ, chúng ta và nhân loại tiến bộ không ai mong muốn chiến tranh, và thậm chí không muốn nhắc đến hai từ “chiến tranh”. Thế nhưng, lịch sử vẫn rất cần được tôn trọng nhằm rút ra những bài học cần thiết để chúng ta và những nước lân bang, nói rộng ra là cả thế giới này được sống trong hòa bình vĩnh hằng.
Đơn Thương