Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

NHỮNG GIỌT NƯỚC MẮT XỨNG ĐÁNG GIÀNH CHO “ MƯA ĐỎ”

Tô Hoàng
Thứ hai ngày 25 tháng 8 năm 2025 4:12 PM
Về một phương diện nào đó, Chiến dịch 81 ngày đêm Thành cổ Quảng trị có thể sánh với chiến dịch lịch sử Điện Biên phủ 1954 trong việc góp phần đưa đến kết thúc Hòa đàm Paris 1973. Nghĩa là đấy một trận đánh mang tầm chiến lược, với sự nỗ lực tối đa của cả hai phía.
Theo những tài liệu ghi chép được, với chiến dịch Thành cổ , phía ta có Bộ chỉ huy tối cao đứng đầu là những vị tướng lừng danh. Huy động vào trận đánh có nhiều sư đoàn; bộ binh có sự hợp đồng đắc lực của pháo binh; ta- địch giằng co từng căn nhà, từng thước đất; tin tức giành giật này từng ngày từng giờ được đặt trên bàn Hội nghị Paris…
Nhắc lại những điều như trên, để thấy rằng, thành công lớn nhất của phim “ Mưa đỏ” chính là nằm ở chỗ việc chỉ đạo làm phim đã ĐẦY BẢN LĨNH để CHỌN LỰA CHO PHIM MỘT ĐÍCH ĐẾN, tức tập trung mọi nỗ lực để phim miêu tả cho bằng được tính chất QUYẾT LIỆT, MẤT CÒN, chứ tuyệt nhiên không ôm trùm nhiều chủ đề khác.
Xưa nay làm phim về lịch sử nói chung, về chiến tranh nói riêng, cấp duyệt phim thường hay yêu cầu không chỉ nói cho ĐÚNG mà hơn thế phải NÓI CHO ĐỦ, NÓI CHO HẾT. Thành thử mỗi bộ phim dễ thành món lẩu thập cẩm, lướt trên bề mặt , đủ mâm đủ bát mà không sâu sắc, không gây ấn tương.
Chuyện kể của “Mưa đỏ” tập trung vào cuộc chiến đấu của chỉ một Tiểu đoàn, thậm chí của một tiểu đội. Phim không đả động tới những thử thách xẩy ra bên phía Nhan Biều-bờ bắc sông Bến Hải; không nói tới sự chi viện của các trận địa pháo mặt đất; không đả động tới những nỗ lực của binh chủng thông tin để bảo đảm cho đường giây liên lạc tầm chiến dịch thông suốt..Ngay cả hình ảnh cuộc hòa đàm Paris hiện ra trong phim cũng chỉ tạo thêm một mối liên tưởng giữa đánh và đàm..
Nhưng để miêu tả tính chất KHỐC LIỆT, SỐNG CÒN thì bộ phim tập trung hầu như toàn bộ tổng lưc .
Đó là những toàn cảnh rộng được thiết kế tỷ mỉ, công phu . Đó là những quả nổ gần xa không giả, không hời hợt, bày vẽ cho có. Đó là những đường hào lở lói, những đường cống ngầm ngập ngụa nước. Đó là những thử thách đối với những người chiến sỹ bảo vệ Thành Cố khi bom đạn quá ác liệt, khi đói cơm đói muối, khi mùa mưa sớm ập đến, khi chịu cưa cắt, băng bó tạm thời nơi bệnh viện tiền phương, ngay cả khi được chở qua sông sang bờ Bắc
Tính HOÀNH TRÁNG, độ SỬ THI của trận mạc và nhất là TíNH CHÂN THỰC trong việc miêu tả bằng ngôn ngữ điện ảnh thì hầu như chưa bộ phim nào vể chiến tranh của chúng ta xưa nay từng đạt được.
Nêu vài ví dụ: Khâu hóa trang cho các nhân vật ( cả ta và địch ) tuyệt nhiên không phải trò bôi quẹt của phấn son, than chì..
Máu ở những vết thương, máu trộn lẫn bùn đất-trong “Mưa đỏ” luôn tạo cảm giác của máu thật. Tuyệt nhiên không phải là thứ máu của bột hoặc sơn pha loãng mà nhiều bộ phim mắc phải.
Một điều rất quan trọng khác, rất cần nhấn mạnh là: Dù câu chuyện trận mạc được kể lại sau hơn nửa thế kỷ, vào thời buổi nhiều người muốn”hỏa cả làng”, đang kêu gọi sự quên lãng quá khứ, hòa hợp dân tộc, phim “ Mưa đỏ” đã tìm được GIỌNG ĐIỆU CHÍNH XÁC. Phía đối phương không bị bôi bác, tô vẽ cố ý làm cho nhếch nhác, yếu hèn đi. Phía bên ta cũng không bị cường điệu, không cần tìm đến cội nguồn của hành động hoặc lý giải về chủ nghĩa anh hùng. Hai phía đều dốc sức, quyết liệt . Và chính từ đây hình tương những người chiến thắng càng được tôn cao !
Hình tượng hai người mẹ lính ngồi chung hai đầu một con thuyền, trải hoa xuống dòng sông Thạch Hãn không chỉ giàu sức khái quát , mà con được tính toán, trù liệu kỹ càng.
Một điểm cộng nữa cho “ Mưa Đỏ” nằm ở SỰ TINH TẾ, RẤT CÓ LIỀU LƯỢNG của biên tập, biên kịch, đạo diễn.
Có người xem phim phàn về trường đạn cô gái lái đò giúp anh bộ đội đi tiểu tại bệnh viện. Liệu việc này có tục, có tầm thường, có cần thiết hay không? Câu trả lời phải ở chỗ cảnh ấy được dàn dựng ra sao, được quay với góc máy nào, có nhắm vào thói thưởng thức tầm thường không? Chả phải là vô cớ, khi trong phim trường đoạn này được lặp lại trong câu chuyện đùa vui của các chiến sỹ; nhất là được cô gái lái đò nhắc đến vào lúc chia tay người yêu lại khiến người xem rưng rưng nước mắt.
Vai anh lính tâm thần ở phía ta múa may giữa bom rơi đạn nổ. Và nhất là vai anh lính Sài gòn khi thấy chiến sỹ ta và đối phương đấu vật, mệt phờ mà không phân thắng bại, tức khí và mất bình tĩnh chú lính Sài gòn này liền lia chết luôn cả hai. Kiểu những nhân vật như thế này, xưa nay trong phim trận mạc của ta chưa hề có.
Việc lý giải hành động anh hùng của một chiến sỵ bị thiêu cháy, được chia thành cung bậc, cũng không hề sống sít, lên gân.
Chuyện lính ta lính địch thi tài giở võ nghệ cũng bị phê phán. Có thể là liều lượng hơi nhiều. Nhưng cũng lại phản ánh một thực tế ở chiến trường: Thế trận giữa Ta và Đối phương rất hay đan xen nhau, rât thường xuyên đụng độ nhau trong những trận đánh GIÁP LÁ CÀ với vũ khí bằng dao, bằng báng súng, bằng xiết cổ nhau… Những hành động ấy lọt vào ống kính e rằng thiếu thẩm mỹ, gây hậu quả xấu. Bằng ngôn ngữ điện ảnh tìm tới Đấu vật có lẽ thuận tiện hơn chăng?
Một điểm cộng cuối cho ”Mưa đỏ” đây: Làm phim về trận mạc, về những xung đột trực diện đầy khói súng, máu me trộn lộn với những tiếng kêu thét đến lạc giọng, nhưng bộ phim không gây căng thẳng cho người xem mà VẪN CÓ SỨC CUỐN HÚT, HẤP DẪN từ đầu đến cuối phim. Đó là vì “ Mưa đỏ” không monoton trong giọng điệu kể, trong khắc họa tính cách nhân vật, không có những tình huống cười cợt lạc quan giả tạo, lãng nhách; trong trù liệu bố cục có lớp lang kỹ càng theo chiều hướng tăng dần tác động cảm xúc về cuối phim.
Ấn tượng đọng lại cuối cùng là SA SÓT và TỰ HÀO và THẤY CÁI GIÁ PHẢI TRẢ CHO NGÀY HÒA BÌNH HÔM NAY.
Những giọt nước mắt xúc động chân thành trong suốt buổi chiếu được coi là điểm son xứng đáng cho phim “ Mưa đỏ”.
TÔ HOÀNG