Góp phần tìm về tiếng Việt miền Nam Với Nguyễn Thị Thụy Vũ, có thể thấy hai mảng đề tài xuyên suốt: sinh hoạt nông thôn miền Nam với nhiều bối cảnh của thập niên 1940. Bên cạnh đó, ngòi bút nữ này còn chạm đến đề tài thời thượng về giới “ăn sương”, các cô gái snack bar… khi Mỹ đổ quân vào miền Nam. Đáng chú ý, không chỉ là những phận đàn bà chìm nổi, còn là sự tiếp cận về lời ăn tiếng nói của các nhân vật. Các từ ấy nay có thể xa lạ với nhiều người nhưng chính nó cho thấy rằng tiếng nói Nam bộ còn là ngôn ngữ của văn chương. Thật thú vị khi quay trở về với những từ nay ít gặp như: ton reng (gièm pha, mách lẻo); nhậm lẹ (mau mắn, nhanh nhẹn); đi bương (lật đật, hối hả, mau, nhanh); ỏn thót (nịnh nọt, gièm pha); hơi lài (đã nhạt màu); phướng (đuôi cá nhiều màu sắc); thỏn mỏn (sa sút dần đến kiệt sức, kiệt quệ); ca giỡn nhịp (ca phiêu linh, ngẫu hứng theo cảm xúc nhưng lúc xuống xề vẫn trúng với khuôn nhịp)… Còn với các thân phận “sống làm vợ khắp người ta”, Nguyễn Thị Thụy Vũ cho biết từ năm 1961 – khi từ quê nhà Vĩnh Long lên Sài Gòn học tiếng Anh và sau đó đi dạy cho các cô bán snack bar, “me Mỹ”, bà đã có được chất liệu ngồn ngộn và tiếp cận khá nhiều vốn từ, tiếng lóng vừa du nhập… Những trang viết sống động, tươi mới về đề tài này, so với các cây bút nữ thời ấy, Nguyễn Thị Thụy Vũ chạm đến một cách sâu sắc và chân thật hơn cả. Cần ghi nhận ở đây là góc nhìn nhân văn, cảm thông và chia sẻ của bà về thân phận người phụ nữ thấp kém, bất hạnh trong xã hội cũ. Thêm nữa, một chút ngạc nhiên không hiểu sao Giải thưởng Văn học miền Nam năm 1971 lại trao cho tiểu thuyết Khung rêu của bà? Có lẽ họ trao vì giá trị đích thực của văn chương hơn là xét về “quan điểm chính trị” bởi lẽ các tuyến nhân vật, sau Cách mạng Tháng Tám (1945) đã thật sự thay đổi. Người nông dân bần cùng đã đứng lên lật đổ điền chủ, làm chủ vận mệnh. Hãy nghe Đực, một “bần cố nông”, trả lời lúc ông Phủ đi thâu lúa ruộng: “Ông hãy quày ghe về ngay, nếu không vị chút tình nghĩa cũ, tui đã ám hại ông rồi. Tất cả ruộng đất của bọn tay sai cho Tây đều được chia cho dân nghèo hết rồi. Ông đừng có mong còn một hột lúa cho chim ăn, một thẻo đất cho chó ỉa nữa”. Cũng từ năm tháng đó, không ít nhân vật trí thức của bà đã vào bưng theo kháng chiến. Tinh thần khí khái, nghĩa hiệp này rất gần với không khí hào hùng: “Mùa thu rồi ngày hăm ba, ta đi theo tiếng kêu sơn hà nguy biến…”. Tại sao lúc ấy Nguyễn Thị Thụy Vũ đã mạnh dạn phản ánh đúng hiện thực của lịch sử? Tôi đã thử tìm ra câu lý giải: nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ là con gái của nhà thơ yêu nước Mặc Khải (tác giả tập thơ Sông nước Cổ Chiên, Phấn nội hương đồng) – thế hệ cùng thời với nhà thơ, nhà văn Sơn Nam, Truy Phong, Kiên Giang… đã cất lên tiếng nói về tình tự dân tộc, “về nguồn” trước sự va đập khốc liệt của thời cuộc. Vì thế khi cầm bút với ý thức xây dựng các câu chuyện, tình tiết, ngôn ngữ đặc thù… là một phần do bà ảnh hưởng từ thân phụ chăng? L.M.Q. |