Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

Chân dung Trần Đăng Khoa

Trung Trung Đỉnh
Thứ tư ngày 4 tháng 3 năm 2009 1:01 PM
 
Khoảng giữa năm 2000, báo Nông Thôn Ngày Nay bỗng nhiên cao hứng mở ra chuyên mục “Người nổi tiếng viết về người nổi tiếng”. Cái chuyên mục có tuổi đời khá ngắn ngủi ấy cũng có vài ba bài thú vị, mà “Chân dung Trần Đăng Khoa” của nhà văn Trung Trung Đỉnh là một ví dụ. Chi tiết độc đáo nhất mà nhà văn Trung Trung Đỉnh đưa ra là câu chuyện tráo đổi Trần Đăng Khoa: “Cái anh chàng Trần Đăng Khoa sinh năm 1956 chính là Trần Đăng Khoa bây giờ. Còn em bé làm thơ Trần Đăng Khoa hồi ấy (sinh năm l958) đã thành ông nội, ông ngoại, con đàn cháu đống ở làng”. Nghe nói lúc ấy suýt xảy ra kiện tụng. Bây giờ sóng yên biển lặng rồi, thấy trên blog của nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên có bản vi tính “Chân dung Trần Đăng Khoa” nên lethieunhon.com xin rước về đây để làm chút tư liệu vui tươi! (LTN)
 
Tôi có ông anh là giáo viên trường làng, từ khi đứng trên bục giảng, cho tới lúc đã về hưu hàng chục năm rồi, vẫn chỉ đau đáu có một mong muốn là làm thế nào trông thấy nhà thơ Tố Hữu và nhà thơ Trần Đăng Khoa thật, được một lần. Số là ông anh tôi cũng có máu thơ phú vẽ vời, thành thử mới có cái ước muốn được trông thấy thần tượng của mình đến như thế. Khổ, cả đời làm nghề nhà giáo, lại ở sâu tút lút trong một làng quê hẻo lánh, chỉ có sách giáo khoa văn học với lại nghe đài (mà đài là chiếc máy ga-len tự chế), cộng với thứ thông tin chủ yếu là lời đồn, chứ hồi ấy làm gì đã có mấy sách, với lại báo chí, truyền hình. Truyền hình đúng là chưa thể nghĩ tới. Sách truyện văn thơ thì lèo tèo, lúc nào nom ông anh tôi cũng ngơ ngơ ngác ngác vì khao khát thông tin, vì càng chịu khó săn tin càng chỉ được nhận những thông tin thất thiệt, đôi khi chỉ do một tay ếch ba hoa nào đó ngồi đáy giếng phán chuyện triều đình, nghe sướng tai, đã niềm khao khát, khiến những người thật thà như anh tôi tin sái cổ, thành thử làm sao anh biết được thiên hạ  không chỉ có hai cha con ông ấy, một cây đa với một chú cuội thần đồng trong làng thơ Việt. Tất nhiên ông anh tôi cũng có biết thêm vài anh tài nữa, chẳng hạn như Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Bính của thời trước, chứ còn các nhà thơ trẻ đương đại thì rõ ràng chỉ có Trần Đăng Khoa là nhất.
Có lần mấy thầy giáo, bạn anh tôi tới nhà tôi chơi, họ đố nhau, nếu bỗng nhiên được trông thấy, được gặp mặt một vị nhà văn nhà thơ thì chọn ai? Đa số là Tố Hữu, tất nhiên. Cũng có người chẳng biết chọn ai. Riêng anh tôi vẫn kiên quyết thứ nhất là Trần Đăng Khoa, thứ nhì  mới tới Tố Hữu. Thời ấy anh tôi dám đặt Trần Đăng Khoa lên trên Tố Hữu là cả một vấn đề, không gàn dở thì cũng là tay liều mạng dám phạm thượng xếp thứ hạng ngược đời thế! Tiếng đồn ở làng tôi, tất nhiên là trong giới sành điệu văn thơ, có một tin  ngấm ngầm rằng, Trần Đăng Khoa còn dám sửa cả thơ Tố Hữu từ Đường ta rộng thênh thang tám thước thành Đường ta rộng thênh thang ta bước nữa là! Hồi ấy Trần Đăng Khoa mới đâu chín mười tuổi, lại đã được phong thần đồng, được toàn đảng toàn dân  ca ngợi, đài báo tuyên truyền, thơ Trần Đăng Khoa được cánh học sinh cấp hai, cấp ba như tôi (lớn hơn Khoa cỡ chừng tám chín mười tuổi) chép trong sổ tay, anh nào hóng được vài chuyện về thân thế sự nghiệp của em bé làm thơ Trần Đăng Khoa coi như là người tài giỏi, là tay đáng nể trọng lắm. Chính ông anh tôi là tay hay có những nguồn thông tin giật gân về Trân Đăng Khoa và Tố Hữu nhất, vì anh là bạn thân với chú Tỷ cán bộ phát hành báo chí dưới huyện. Chú Tỷ không những đã nhiều lần được gặp Trần Đăng Khoa với lại cả Tố Hữu mà còn được nghe họ nói chuyện, thậm chí còn hỏi vặn họ khi họ hỏi những người nghe xem có ai còn muốn hỏi gì nữa không? Có lần đi họp trên huyện trên tỉnh về, anh tôi khoe:
- Tao suýt nữa được gặp trưởng ty văn hoá với nhà thơ Tố Hữu, ấy vậy mà lại sểnh toi mất cả mẻ gặp cây đa cây đề trong làng văn, chỉ vì nghe tin Trần Đăng Khoa về thăm thành đoàn Hải Phòng, nên tao và mấy thằng bạn mới bỏ hội nghị đến đấy. Đến đấy mới biết Khoa nó không tới được vì bận tiếp khách nước ngoài, khi trở lại hội nghị thì ông trưởng ty đã lôi Tố Hữu lên Thành ủy rồi!
 Tôi hồi ấy cũng đã mười lăm mười bẩy tuổi, và cũng là tay thích xem sách, hóng chuyện văn thơ, nhưng vẫn còn tồ tẹt ngớ ngẩn lắm, nên mới há mồm ra mà nghe, rồi nói phụ vào, vẻ luyến tiếc thay:
- Thế là Cháo trứng cũng hỏng, cháo lòng cũng trơ, ai bảo anh đứng núi nọ trông  núi kia làm gì?
Cái cú sểnh mẻ cá to ấy, cho mãi tới bây giơ vẫn là nỗi luyến tiếc lớn, không biết đến bao giờ phai mờ được, nếu như không có tôi là thằng em ruột của anh, sau ba mươi năm, bằng chiếc xe con bóng loáng của cơ quan, điệu được Trần Đăng Khoa và Trạng Lựu về nhà cho anh tôi chiêm ngưỡng. Phải mở ngoặc đơn ở chỗ này, vì anh tôi biết tôi cùng cơ quan với Trần Đăng Khoa và Lê Lựu nên lấy làm tự hào lắm, nhiều lần thúc tôi kéo các chú ấy về chơi. Sau tiểu thuyết Thời xa vắng Lê Lựu nổi danh như cồn, lại được cử đi Mỹ thuyết khách, tất nhiên là theo cách nói của anh tôi. Khi Lê Lựu về nhà lại được cử đi nói chuyện về nước Mỹ khắp nơi, nhưng ở làng tôi thì chỉ được nghe băng catsete, thuê mỗi tối bảy ngàn đồng. Sau khi nghe cái băng Lê Lựu kể những cuộc đối thoại nảy lửa của anh với các nhà văn, các học giả Mỹ, anh tôi khoái quá nên mới gọi Lê Lựu là Trạng Lựu. Cùng một lúc mà anh không những được trông thấy mà còn được nắm cả tay, cụng cả li, gắp cả thức ăn bỏ vào bát cho Trạng và cho Thần Đồng thì hỏi còn có hạnh phúc nào lớn hơn? Các cụ ta có câu: Gần chùa gọi bụt bằng anh, cấm có sai. Thấy tôi quá suồng sã với Trạng Lựu, anh tôi phải gọi tôi ra sau nhà chỉnh cho một trận. Khi chiều chúng tôi vừa về đến nhà, anh tôi hỏi tôi nên sắm món gì, tôi bảo canh cua đồng nấu với rau đay, mồng tơi, và nếu có thể thêm quả mướp, thêm bát cà pháo muối chua, thêm đĩa tôm kho mặn, Trạng và  chú Khoa đều thích các món ấy. Anh tôi mới đầu không nhất trí, ý anh là phải làm cỗ, phải thịt vài con gà, thậm chí mổ lợn, cho quân xuống ao đánh cá, nó mới ra cái thú đón khách trọng tận trên Trung Ương về, mở mày mở mặt với làng với xã. Ấy thế mà tôi lại chỉ đưa ra cái thực đơn mỏng tèo, với những món ăn quê mùa đãi khách sang bậc nhất, thật không xứng với tấm thịnh tình của anh tôi, không xứng với chú Kiểm lái xe oai vệ như võ sĩ cùng chiếc xe con bóng nhoáng của chú đậu ở trước sân nhà. Mà anh tôi, kể cả chị dâu tôi cũng là trí thức, là giáo viên, ba đời chuyên nghề bảo học, gia đình tôi được gọi là gia đình gia giáo, thậm chí hiện anh còn đang được bà con coi là bậc trưởng lão ở làng, nghĩa là còn trên thằng Hồng em họ tôi giữ chức trưởng thôn, chứ đâu phải chỉ có chân đất mắt toét, như Trạng Lựu vừa mới nói với anh tôi rằng, chính Trạng, chính cả thằng Khoa, thằng Đỉnh cũng đều là một lũ nhà quê chân đất mắt toét cả! Chao ôi, phải được xem Lê Lựu với Trần Đăng Khoa về ngồi trong mâm cơm giữa làng quê Bắc Bộ, mới thấy được sức mạnh tiềm tàng của cả hai con người trông bề ngoài ụt ịt, nhem nhuốc mà hoá ra sinh động đến mê mẩn lòng người, kể cả người nhà quê. Anh chị tôi hoàn toàn bị bất ngờ khi chén xong ba bát canh cua rau đay với lại cà pháo, không ai động đũa đến thịt gà, giò chả, hiến cho gia đình tôi nghe vài ba câu chuyện tầm phào, chưa ai kịp hiểu đầu cua tai nheo thế nào thì cả Trạng và Thần Đồng, hai nhà trí thức thần tượng của anh của chị, của bao nhiêu công chúng cần lao, lại hồn nhiên nằm lăn  ngay ra chiếu ăn giữa nhà thi nhau ngáy. Anh chị tôi  nhắc các cháu đụng bát, đụng đũa nhè nhẹ, đi lại nhè nhẹ, với một thái độ hết sức cẩn trọng, khiến tôi và chú Kiểm lái xe cứ phải đánh mắt cho nhau cười mủm, rõ ra cái lối bụt chùa nhà không thiêng thật...

Từ ngày quen biết Trần Đăng Khoa tới nay, dễ có đến suýt soát hai chục năm rồi. Suýt soát hai chục năm ấy, kể cả lúc ở bên Tây Nga lẫn khi trở  về Hà Nội, Sài Gòn, về miền Trung, lên Tây Nguyên vào làng đồng bào dân tộc, rồi lẩn thẩn trong luỹ tre của làng quê Bắc bộ, lúc nào tôi cũng thấy anh đánh bộ quân phục không quân hàm quân hiệu, nhàu nhàu, âm ẩm, mông mốc, chừng như suốt mấy chục năm qua nó không được giặt, nó không được là ủi, nó vẫn rùng rục cũ kỹ đậm đà bản sắc mồ hôi dầu như chính ông chủ có vóc dáng khoai tây của nó. Luôn luôn có ý thức về sự nổi tiếng của mình, nhưng Trần Đăng Khoa quyết không phải hạng người lập dị về phương diện trang phục. Trang phục đối với anh chỉ là một thứ vải tiện thể khoác lên người, che lấp đi cái phần cần che lấp. Ấy thế mà trong tủ áo của anh, (tất nhiên là hồi chưa vợ) tôi thấy có đến ba bộ comple, loại may đo đắt tiền hẳn hoi, của đáng tội, thỉnh thoảng Trần Đăng Khoa cũng có diện cái món này, nhưng nhìn anh trong cái món ấy nó mới khôi hài làm sao: Một củ khoai tây đóng vai con ốc bươu chính hiệu! Chơi với Trần Đăng Khoa mãi mà vẫn chẳng bao giờ lường được trong cái đâu hói sớm kia đang có những toan tính láu cá nào. Anh luôn luôn là một thằng bạn láu cá. Nhờ anh việc gì là anh sốt sắng nhận lời, nhưng cái việc ấy nhất định không bao giờ có trong đầu anh ngay sau khi lời hứa như đinh đóng cột, cái bắt tay như sẵn sàng sẻ nửa cơ ngơi, và nếu ta nhắc thêm lần nũa, y như rằng được nghe anh tung ra một câu thề độc, rất độc, cho kẻ sai lời hứa. Rồi anh quay lưng, nhìn theo tấm lưng âm ẩm mồ hôi quân phục vì dầy cơ bắp quá mà không cung cấp đủ chiều dài để nó có thể cong cong xuống một chút, đang cắm cúi đi kia, đâu có biết là mình sẽ hố với hắn, nếu cứ đinh ninh rằng công chuyện mà hắn nhận giúp ta rồi sẽ tốt đẹp. Ta chợt thấy lòng ta dâng lên một tình cảm buồn thương, một nỗi buồn thương xa vắng chẳng thể nào cắt nghĩa được. Anh  không có thói quen phải ngượng ngùng khi có ai đó trách anh vì thất hứa. Sự thất hứa thường xuyên và lỗi hẹn thường xuyên không làm giảm uy tín của Trần Đăng Khoa đối với bạn bè. Bởi vì bạn bè, ai đã chơi với hắn thì đều phải coi chuyện đó là chuyện vặt, chuyện của thằng Cuội ngồi gốc cây... thơ, một cây thơ được ăn thứ nước giếng thơi của nền văn hoá xa xưa làng xã Việt. Một thứ thơ như ca dao, hò vè dân dã. Một thứ thơ được bắt nguồn từ câu chuyện kể:
Em thường rải cái nong
Ra gữa sân ngồi học
Những đêm có trăng mọc
Em chơi cho đến khuya
Câu chuyện về ông trăng nôm na là thế này: Đêm nay đêm rằm, ai treo ông trăng cao thế, ông nhìn chúng em và ông khoe ông có cái mặt tròn. Đấy, một em bé tám tuổi bình thường, (tất nhiên phải sinh ra và lớn lên ở thôn quê Bắc bộ) thì cũng có thể kể được như thế. Nhưng đến ba khổ sau, khi vượt ra khỏi khuôn khổ của câu chuyện kể thì không phải chú bé nào cũng tả được. Đúng là tả:
Dưới sân em trông trăng
Có quả thị thơm lừng
Nải chuối tiêu thơm mát
Ông trăng nhìn thấy xôi
Là ông nhoẻn miệng cười
Áng chừng ông thích lắm
 
Nhưng đến cái câu cuối của khổ này thì không còn là tả nữa, mà đó là cái nhìn, hay nói đúng hơn, cái cảm của thi sĩ. Ta không thể tin một chú bé tám tuổi mà lại có thể thốt lên, tưởng là bình thường, nhưng vì nó được dẫn dụ từ kể sang tả để rồi đưa ta tới cái cảm khác thường :
Trăng nở vàng như xôi
Xin bạn cứ đọc lại từ đầu toàn bộ khổ thơ, bạn sẽ thấy cái câu cuối ấy nó có ý nghĩa xuất thần, vượt ra khỏi câu chuyện được em bé khéo tả thế nào. Ở khổ ba, khổ bốn cũng tương tự như vậy.
Tôi không có ý định làm cái việc phân tích thơ Trần Đăng Khoa, nhưng khổ nỗi, động đến anh ta tức là động đến thơ, nhất là thơ thời thơ ấu của anh. Nó vừa nôm na, trẻ con lại vừa được em khéo kể, khéo tả, khiến cái việc ấy, cái cảnh ấy ta chẳng lạ gì, vậy mà rồi ta lại cứ thấy lạ lùng thay cái cậu bé này...
Mưa
Sắp mưa
Sắp mưa
Những con mối
Bay ra
Mối trẻ
Bay cao
Mối già
Bay thấp
Gà con
Rối rít tìm nơi
ẩn nấp
Ông trời
Mặc áo giáp đen
Ra trận
Muôn nghìn cây mía
Múa gươm
Kiến
Hành quân
Đầy đường
Lá khô
Gió cuốn
Bụi bay
Cuồn cuộn
Cỏ gà rung tai
Nghe
Bụi tre
Tần ngần
Gỡ tóc
Hàng bưởi
Du dưa
Bế lũ con
Đầu tròn
Trọc lóc
Chớp
Rạch ngang trời
Khô khốc
Sấm
Ghé xuống sân
Khanh khách
Cười
Cây dừa
Sải tay
Bơi
Ngọn mùng tơi
Nhảy múa
Mưa
Mưa
ù ù như xay lúa
Lộp bộp
Lộp bộp...
Rơi Rơi...
Đất trời mù trắng nước
Mưa chéo mặt sân
Sủi bọt
Cóc nhảy chồm chồm
Chó sủa
Cây lá hả hê
Bố em đi cày về
Đội sấm
Đội chớp
Đội cả trời mưa...
                 l967
Tôi cố tình chép hết bài thơ này ra đây để minh chứng cho nhận xét của mình rằng thơ thời thơ ấu của Trần Đăng Khoa bao giờ cũng bắt đầu bằng câu chuyện kể, rồi tả, rồi bỗng dưng xuất thần. Năng lực tả cảnh thôn quê của Trần Đăng Khoa qua bài Mưa thần kỳ này không có gì đặc biệt, mà sao nó cứ luẩn quẩn với ta, mới mãi với ta, đọc lên sao nó cứ xối thẳng vào cảm xúc của ta, ký ức của ta, tạo nên trong ta một bức tranh quê truyền thống, một bức tranh quê đặc sệt quê mùa mà sao vẫn thanh cao, huyền diệu. Đánh Thần Hạn cũng là một bài đặc sắc chất phóng túng của thơ Trần Đăng Khoa. Tôi không đánh giá cao những bài lục bát thời ấy của anh. Thơ lục bát thời thơ ấu của Trần Đăng Khoa bộc lộ một lối tư duy dễ dãi bình dân thôn dã, gần với ca dao, gần với lời cho các làn điệu chèo hơn là thơ:
 Tay em cầm một cành đào
Ngày mồng một tết chúng em vào thăm anh
Các anh ở giữa đồng xanh
Giơ tay ra đón, các anh cũng cười
 Cành đào em tặng rất tươi
Thấy các anh khoẻ,  các anh cười, em yêu 
Ngay cả bài Đêm Côn Sơn, một bài được nhiều nhà bình luận đánh giá cao, thì theo tôi đọc lên vẫn bị chất ca dao hò vè lấn át, mặc dù có cái câu rất độc: Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng. Quả  thật, tôi thấy cái câu ấy vẫn không đủ sức dắt nổi toàn bài ra khỏi miền ca dao thôn dã. Thơ lục bát đã làm nhiều nhà thơ lẫy lừng của ta sa lầy vào cõi trần tục nôm na của ca dao hò vè, nó là cái bẫy, là bãi chiến trường thử lửa đối với tài năng. Vượt qua cái hơi hướng của ca dao hò vè để đến được với cõi thiêng của nó thật gian lao khổ luyện, luyện đến khi không còn thấy cái sự luyện ấy nữa, mới thành thơ được. Thật tình tôi chỉ thấy có nhà thơ Huy Cận (thời Lửa Thiêng) là người đến được với nó một cách tự do, thoải mái . Nhưng cũng chính Huy Cận là người sa lầy một cách thảm hại  không tài nào hiểu được ở những bài sau này.
Ta Ka Nô! Ta Ka Nô!
Anh đi chụp ảnh quân thù bắn anh
Anh là cờ đỏ long lanh
Anh là ánh sáng trong lành nên chi
Kẻ thù nó bắn anh khi
Tay câm máy ảnh đang ghi nắng chiều.
Quả tình, đọc xong ta không còn lời nào để bình thêm được nữa!

           *
Thằng Cuội trong dân gian không phải là thằng Cuội xấu, mặc dù chú ta cũng mắc đủ thứ tội nợ, cái tội nợ to nhất vẫn là thói cuội, thói đi nói dối cha, về nhà nói dối chú. Hình tượng thằng Cuội là điển hình của anh nông dân láu vặt nhưng chẳng bao giờ làm nên tội danh, có khó chịu, có ghét anh ta thì cũng thế, cũng chỉ gây nên  nỗi bất bình trong chốc lát, rồi thôi, rồi đâu lại hoàn đấy, thành thử Cuội vẫn hoàn Cuội và ta lại không thể rút kinh nghiệm được, lần sau lại tin hắn, lại bị mắc lỡm bởi cái lối thật thà bằng cha mách qué của hắn. Tóm lại giận thì giận, mà thương càng thương. Hình như trong cuộc sống dân gian của người Việt cư trú ở châu thổ sông Hồng không thể thiếu được sự hiện diện của thằng Cuội. Không có Cuội thì buồn mà có Cuội thì nhiều khi cuộc sống bị đảo lộn. đến sôi máu, cáu tiết, giận điên lên được. Ấy vậy mà Cuội Khoa đây còn được lên thành phố, được ra cả nước ngoài tham quan, học hỏi, điều tốt Cuội học được nhiều, nhưng cái chất cuội trong con người anh ta không cách gì gột rửa được, nhiều khi thấy nó đậm nhạt khác nhau, nhưng cái cốt lõi của nó thì như các cụ nói, nó đã thành tật. Làm cái gì mà không cuội một tí là y như rằng nó cứ bứt rứt trong lòng. Hề hề, cuội cuội làm cho cuộc sống tươi lên, nhưng nếu quá đi thì nó lại thành ra thói tật.Cái giận của bạn bè đối với Trần Đăng Khoa chính là cái giận ấy. Một biên tập viên ở một tòa báo chưa có kinh nghiệm chơi với Trần Đăng Khoa, sau khi đặt được anh viết cho bài làm cái đinh  cho số báo về khoe với Tổng biên tập và cả cơ quan, đến ngày ấy là Khoa đã hứa là đem đến tận nơi . Có người khuyên anh ta là nếu đã đặt thì phải thúc, phải bám chặt lấy hắn như bà Định bám thắt lưng địch, may ra mới lấy được bài. Mà chắc chắn là bài hay, bài làm cái đinh được. Anh bạn phóng viên nọ tin vào lời hứa, tin vào cái bắt tay sẻ nửa cơ ngơi của Trần Đăng Khoa, tin vào câu thề độc làm chó ăn cứt cho con ông nếu tôi sai hẹn nên đến ngày giờ hen, cứ đi ra đi vào hóng đợi. Mãi không thấy Trần Đăng Khoa đến. Anh ra quán giải khát trước cơ quan chờ cho bớt căng thẳng. Chờ hàng tiếng nữa vẫn không thấy. Một chú bé bán báo đi ngang qua, tiếng rao: Alô! Báo mới đây! Có tin mới Trần Đăng Khoa đối thoại với lão Chộp, người bắt sống  viên đại sứ quán Mỹ tại Việt Nam đây! khiến anh chồm tới níu vai chú bé bán báo lại, ấn tiền vào tay chú, giật lấy tờ An Ninh Thế Giới, miệng lẩm bẩm:  Thằng đểu! Thằng mất dạy! Nó đã hứa, đã thề với mình....
Té ra sự thể là thế này: Hai ba hôm trước gì đó, Trần Đăng Khoa đã viết xong bài cho anh bạn phóng viên nọ, theo yêu cầu hẳn hoi. Trên đường đem bài đến đưa trước hẹn, tình cờ gặp Hữu Ước dọc đường, Hữu Ước hỏi có gì mới đưa đây đăng ngay. Khoa ta quên phắt lời thề với anh phóng viên nọ, thò tay trong túi, móc luôn cái bài lẽ ra đem nộp kia, đưa cho Hữu Ước. Hữu Ước phải hỏi lại một câu đại loại thế này: Ê Cuội, bài này chưa in đâu thật chứ? - Chưa. Tôi thề với ông.. Thề bồi của Cuội là cái đinh! Nhưng với tính nhanh nhạy của nghề làm báo, lại thuộc tính bạn nên Hữu Ước đem về đọc ngay, cho in ngay. Anh bạn phóng viên kia đành phải trám bài khác vào cái trang dành cho lão Chộp bị chộp hụt! Còn Trần Đăng Khoa thì vẫn coi đó là chuyện bình thường, chuyện đơn giản. Đúng là đơn giản tôi là Trần Đăng Khoa,  vậy thôi.
           *
Có ba người trong đoạn đời làm thơ thời niên thiếu  của Trần Đăng Khoa tạo nên ảnh hưởng trực tiếp đến thi pháp của em. (Tôi gọi em đây là em Khoa thời bấy giờ). Và cả của anh, nhà thơ Trần Đăng Khoa bây giờ. Đó là mẹ, gồm cả quê hương với góc sân và khoảng trời nhà em. Đó là Xuân Diệu thi sĩ và bạn bè văn thơ. Người thứ ba, ấy là Tố Hữu. Tố Hữu vừa là nhà thơ vừa là nhà chính trị, nhà quản lý văn nghệ.
Có thể nói tập thơ xuất sắc nhất của Trần Đăng Khoa cho tới bây giờ, vẫn là tập Góc sân và khoảng trời. Sau này anh tập hợp tất cả thơ  thời niên thiếu lại thành tập Thơ tuổi ấu thơ. Nó được làm ra hồn nhiên trong một không gian cực kỳ lành mạnh và trong trẻo. Chỉ có góc sân và khoảng trời quê hương, và mẹ, hay nói chính xác hơn là chỉ có trong vòng tay của mẹ hiền, tài năng của chú bé ấy mới phát lộ một cách tự nhiên như lúa như khoai trên đồng đất quê nhà những mùa vụ bội thu. Nó chính là vẻ đẹp dân giã vừa rất đơn giản lại vừa huyền diệu.
Con bướm vàng
Con bướm vàng
Bay nhẹ nhàng
Bên bờ cỏ
Em thích quá
Em đuổi theo
Con bướm vàng
nó vỗ cánh
Vút lên cao
Em nhìn theo
Con bướm vàng
Con bướm vàng...
Chẳng có gì nhiều, ngoài một em bé và con bướm vàng, bên bờ cỏ, không nhắc gì tới cánh đồng nhưng sao ta cứ thấy một cánh đồng ngát hương hoa. Không thể đơn giản hơn và cũng không thể huyền diệu hơn khi tuổi thơ của ta được đầm mình trong hoa thơm cỏ lạ nơi đồng nội quê mình.
Thơ tuổi thơ của Trần Đăng Khoa ngộ nghĩnh, cái ngộ nghĩnh mang bản sắc của những bài hát đồng dao:
Đã ngủ rồi hả trầu?
Tao đã đi ngủ đâu
Mà trầu mày đã ngủ...
            Hay:
Đoàn người bước lên lưng Cua
Tay cầm cào cỏ
Răng bừa
Chiêng dồn, trống thúc
áo quần rách bươm
Phấp phới
Người trẻ đứng trên
Người già đứng dưới
Bạn nhỏ đứng giữa đôi càng
...
Rồi :
Hay nói ầm ĩ
Là con vịt bầu
Hay hỏi đâu đâu
Là con chó vện....
 Và đây nữa:
Ò...ó...o...
Ò...ó...o...
Tiếng gà
Tiếng gà
Giục quả na
Mở mắt
Tròn xoe
...
Và nữa:
-Than ơi!
Bạn từ đâu ra
Mà bạn đen thế?
-Tôi từ đáy bể
Mắt tôi có ngọc trai
...
Sự trưởng thành trong mỗi câu thơ, trong mỗi bài thơ, kể cả ý tưởng lẫn cấu tứ, sáng dần lên, chững chạc dần lên, vừa giữ được bản năng gốc chân quê hồn nhiên trong sáng, lại vừa lịch lãm diệu nghệ. Đó là một bước tiến mới vô cùng quan trọng, bởi tự nó khẳng định được chân tài và khẳng định được vị trí của mình trên văn đàn, ấy là những bài thơ sau khi em Khoa đã tiếp xúc với văn đàn mà người dẫn dắt đáng yêu nhất, đáng trân trọng nhất phải kể đến Xuân Diệu. Xuân Diệu như là người mở cổng cho Trần Đăng Khoa bước vào Ngôi Nhà Thơ. Hơn thế, ông là hướng dẫn viên du lịch, dẫn chú bé nhà quê tới Tao Đàn và giới thiệu chú với văn nhân thi sĩ, đồng thời giới thiệu họ cho chú biết thế nào là Vườn Thơ, thế nào là Rừng Thơ, thế nào là Người Thơ...
Thơ Trần Đăng Khoa ở thời điểm này trở nên thơ hơn, không còn phải kể lể, không còn phải tả cảnh tả người mà vẫn chở được cái tình quê, cái hồn quê vốn dĩ rất gần với thơ, nhưng nếu không có những cuộc tiếp xúc mới mẻ với các bậc trưởng lão trong làng Thơ làng Văn, hẳn chú bé Khoa vẫn chỉ là chú bé Em kể chuyện này mà thôi.
Hạt gạo làng ta
Có vị phù sa
Của sông Kinh Thầy
Có hương sen thơm
Trong hồ nước đầy
Có lời mẹ hát
Ngọt bùi đắng cay...
Hạt gạo làng ta
Có bão tháng bảy
Có mưa tháng ba
Giọt mồ hôi sa
Những trưa tháng sáu
Nước như ai nấu
Chết cả cá cờ
Cua ngoi lên bờ
Mẹ em xuống cấy
...
Đúng như sự vận động thông thường của cuộc sống. Những cuộc tiếp xúc không bao giờ dừng lại nếu như sự phát triển của thơ Trần Đăng Khoa không muốn dừng lại. Hay nói đúng hơn, Trần Đăng Khoa từ tấm bé, vừa mới phát lộ tài năng là đã chìm ngập trong một không gian lộng lẫy bởi những cuộc tiếp xúc đầy hào quang cộng thêm âm vang của tiếng đồn và sự truyền tụng. Chú bé không đủ sức chống đỡ, nhưng bằng bản năng dân giã, bằng tiềm tàng của sức mạnh hồn nhiên mà nền văn hoá làng xã đã cho phép em sống chung với bão lũ, tự mình bươn chải với tiếng tăm của mình! Nếu ví sự ảnh hưởng của Xuân Diệu đối với Trần Đăng Khoa như vẻ đẹp thuần khiết của hương hoa đồng nội gặp sự chăm chút, tỉa tót của nhà nghệ nhân khi cắm hoa và cả khi đặt hoa trong bối cảnh chung của ngôi nhà nghệ thuật thì sụ ảnh hưởng của Tố Hữu lại có một vị thế vô cùng trọng đại. Bản thân thơ của Tố Hữu và ảnh hưởng của ông trong đời sống tinh thần của toàn Đảng, toàn dân thời ấy có một sức mạnh bao trùm.
Không phải ngẫu nhiên chú bé làm bài Hạt gạo làng ta lại đề kính tặng chú Xuân Diệu . Bài Nửa đêm tỉnh giấc  đề kính tặng chú Huy Cận.  Còn bài Ò ó o... thì kính tặng chú Tô Hoài. Chỉ riêng Tố Hữu là Trần Đăng Khoa lấy luôn đầu đề bài thơ một cách trang trọng là Kính tặng chú Tố Hữu
...
Bây chừ đất nước trong tay
Dẫu chưa toàn vẹn đã bay cờ hồng
Chú ngồi dặn cháu trong phòng
Ôi lòng chú cũng như lòng mẹ cha
...
Thơ Tố Hữu và cái bóng của ông đã trùm phủ lên chú bé và tài năng thơ mới phát lộ của chú. Cho mãi tới tận bây giờ, Trần Đăng Khoa đã nhiều phen vẫy vùng để vượt ra khỏi vùng ảnh hưởng, nhưng có lẽ cũng phải tới những năm gần đây điều ấy mới diễn ra ở tập thơ Bên cửa sổ máy bay(l985). Chứ còn trước đó anh vẫn chưa thoát ra khỏi tần sóng quá mạnh với lực hút chừng như không lúc nào giảm sút của ông. Đây, bài thơ hồi Trần Đăng Khoa làm năm 1969 với tựa đề Đất trời sáng lắm hôm nay
 Bác ơi! Cháu đến đây rồi
Ba Đình phượng đỏ một trời tiếng ve
Cháu nghe Hà Nội vào hè
Hồ Gươm nước biếc, bốn bề hoa tươi
Sang năm Bác tám mươi rồi
Bác ơi! Bác thấy trong người khoẻ không?
...
Nếu Trần Đăng Khoa sinh năm l956 thì năm làm bài thơ này anh 13 tuổi. Còn nếu anh sinh năm 1958 thì mới mười một tuổi. Một chú bé mười một, mười ba tuổi viết bài thơ về lãnh tụ ...tràn ngập âm hưởng Tố Hữu.
Và:
 Cao hơn trang thơ, hơn cả cuộc đời
Là Tổ Quốc đang một còn, một mất...
            *
Tôi đã từng nhiều lần không tin cái anh bạn đang ngồi nói chuyện với mình đây lại là do chú bé làm thơ Trần Đăng Khoa lớn lên mà thành. Những bài thơ ấy với con người này sao chẳng thấy tương xứng với nhau chút nào. Bản thân sự tương xứng ấy không liên can gì tới hình thức nhan sắc bề ngoài, nhưng ít ra nó cũng có liên can. Tôi ngờ rằng sau khi làm được một mớ thơ, nói theo cách nói của người nhà quê, thấy con mình nổi tiếng quá khiến bà mẹ lo lắng. Cái cách lo lắng đề phòng của người nhà quê cũng dân giã, bình thường, ấy là lo người ta lấy mất con mình, nên đem nó dấu vào trong bồ thóc như dấu củ khoai củ ráy. Sự thể không đơn giản thế bởi đất nước có chiến tranh. Gà mái mất con vì bom đạn thù, nó còn điên dại lồng lên đi tìm, như trong một bài thơ khá hay của Trần Đăng Khoa đã kể, huống chi bà mẹ đẻ ra được chú hài nhi người ta gọi là Thần Đồng! Khiếp lắm! Thôi thì dấu trong rương trong hòm không xong đành phải bày trò đánh tráo. Thằng anh con bác Cả hơn thằng em hai tuổi vốn tính cũng láu lỉnh thông minh, lại muốn bay nhảy nên cho nó thế vào chân em , vừa được tiếng vừa được miếng, lại giữ được con, lại lo được cho cháu! Thế là nghị quyết gia đình được đưa ra bàn bạc giữa hai nhà. Hai nhà nhất trí. Cái anh chàng Trần Đăng Khoa sinh năm 1956 chính là Trần Đăng Khoa bây giờ. Còn em bé làm thơ Trần Đăng Khoa hồi ấy (sinh năm l958) đã thành ông nội, ông ngoại, con đàn cháu đống ở làng. Từ ngày có người anh ra đi thay cho mình, Khoa thật trở nên buồn bã không thơ phú văn chương nữa. (Tất nhiên anh ta phải mang cái tên của ông anh họ). Còn Khoa anh thì lại cứ tưởng mình là thiên tài, là Trần Đăng Khoa thật, thành thử suốt ngày lo trau dồi văn thơ, chữ nghĩa, té ra anh ta cũng là tay có khiếu, sáng tác được khá nhiều thơ hay, được bộ đội cho đi học sĩ quan rồi cho đi vào thực tế đời sống, làm cán bộ ở Hải Quân, rồi lại đi học trường viết văn Nguyễn Du, hết Nguyễn Du tiếp tục sang Liên Xô học trường viết văn lớn nhất thế giới, ngôi trường mang tên văn hào Gooc-Ky... Sau bẩy năm du học ra trường về nước, đã có cơ quan văn học lớn nhất trong quân đội chờ sẵn để tiếp nhận.
Tôi đã đem câu chuyện Cuộinày của tôi ra kể cho Trần Đăng Khoa nghe, nghe thấy có lý nên anh ta mới ậm ờ cho qua. Kết quả bao nhiêu năm đảng và quân đội chăm lo cho nhân tài, quả được anh đền đáp không đến nỗi nào, bằng những tập thơ tập văn sau này, với những bài thơ những câu chuyện về lính đảo và đặc biệt tập sách Chân dung và đối thoại của anh gần đây được những người hâm mộ cổ vũ nhiệt liệt, và cả những người không đồng ý với anh tranh cãi kịch liệt. Cái kịch liệt ấy tạo nên một không khí mới cho văn đàn tẻ nhạt nhiều năm qua. Mà thực chất bản thân những điều khiến nhiều người tranh cãi kịch liệt ấy cũng  chỉ xoay quanh mấy trò xiếc của anh chàng Cuội ngồi gốc cây... thơ, được Trần Đăng Khoa dựng lên. Âu đó cũng là một sự đóng góp rất đáng kể cho đời sống văn nghệ vậy.
                                                    
Tháng 9 năm 2000
 
Cóp từ lethieunhon.com