Trang chủ » Truyện

MÔN ĐỆ THỨ MƯỜI HAI

Lê Hoài Nam.
Thứ ba ngày 6 tháng 4 năm 2010 5:28 AM
 
    Truyện ngắn 
 
Vào dịp lễ Vượt Qua, Đức Giê-su ki-tô rời thành Na-da-rét lên Giê-ru-sa-lem để hoàn mãn nước Chúa. Vài ngày trước đó, Đức Giê-su nói với mười hai môn đệ:
- Chúng ta chuẩn bị lên thành Giê-ru-sa-lem, ở đó thầy sẽ bị nộp cho các thầy thượng tế và các thầy thông thạo Kinh Thánh. Họ sẽ giao thầy cho người Rô-ma. Họ sẽ nhạo cười và nhổ vào thầy, đánh đòn và giết chết thầy. Nhưng sau ba ngày thầy sẽ sống lại.
Giu-đa, gã môn đệ thứ mười hai, nghe thầy nói thế liền chột dạ. Gã tự hỏi: thầy linh cảm thấy cái chết hay thầy đã đọc thấu lòng dạ, tâm địa của ta? Những kẻ theo nhóm Pha-ri-sêu luôn kỳ thị, ghen ghét với thầy, bọn họ  không mấy khi được giáp mặt thầy mà thầy còn gọi ra ý nghĩ thầm kín u ẩn của họ, huống hồ ta luôn đi theo thầy, thầy ắt phải thấu lòng ta hơn ai hết. Điều nữa: thầy chết rồi liệu có sống lại được như thầy nói không? Có thể lắm! Thầy đã từng ban phát sự sống cho những người tưởng như đã giã biệt  dương thế đó thôi. Hay là ta thay đổi ý đồ, quỳ xuống chân thầy xưng tội, xin được tiếp tục đi theo hầu thầy?
Không! Không thể được! Đức Giê-su có đủ tâm cao đức trọng để xá tội cho ta trong phút chốc, nhưng ấn tượng về ta, tên môn đệ đã ít nhất một lần phản thầy dù mới chỉ trong tâm thức sẽ mãi mãi không xóa nhòa được, nó như một vết sẹo lớn trong tâm khảm thầy. Hơn nữa, và điều này mới là quan trọng nhất: ta đang cần cái mà Đức Giê-su không bao giờ ban phát cho riêng ta...
Đức Giê-su ngồi trên lưng lừa, chú lừa tơ chưa ai cưỡi bao giờ, đi về phía thành Giê-ru-sa-lem. Dân chúng đi theo người rất đông. Nhiều người  cởi áo của mình trải xuống lót đường cho Đức Giê-su đi. Họ vừa đi vừa tưng bừng hô to: “Hoan hô! Kính mừng Đấng nhân danh Chúa ngự xuống trần. Mừng cho một triều đại mới đang tới, triều đại của vua Đa-vít, tổ phụ chúng ta! Hoan hô Chúa từ trên các tầng trời...”
Cũng vào dịp đó, các thầy thượng tế và các thầy thông thạo Kinh Thánh nhanh chóng tụ họp. Xưa nay họ được coi như những đấng bậc trong bàn dân. Họ có dư thừa đức tin vào Thiên Chúa và thông thuộc Kinh Thánh hơn cả lời chào hàng ngày. Nhưng họ không thể tin Thiên Chúa lại mượn Ma-ri-a, một trinh nữ thuộc tầng lớp bình dân để đầu thai ra một ngôn sứ của Chúa. Họ càng không chịu nổi một kẻ trẻ măng như Giê-su lại có thể rao giảng những điều thiêng liêng của Chúa trước muôn dân. Tụ họp bàn bạc, họ mong tìm ra một cơ hội để bắt Đức Giê-su và giết đi. Họ nói với nhau: “Chuyện này không thể làm vào ngày lễ kẻo đám dân mông muội đang tin Giê-su sẽ nổi dậy chống chúng ta!”.
Đúng lúc ấy, có một kẻ có cái cằm nhọn và cặp mắt hay liếc ngang tìm đến gặp họ và nói:
- Tôi sẵn sàng nộp Giê-su cho các ông!
Các thầy thượng tế và các thầy thông thạo kinh thánh nhận ra người đàn ông này là Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, họ tỏ vẻ ngờ vực. Một người trong bọn họ nói:
- Giu-đa, ngươi vốn là kẻ cuồng tín, nay vì cớ gì đã nhạt đức tin vào thầy của ngươi?
- Tôi vẫn tin – Giu-đa đáp – Tôi vẫn tin Đức Giê-su là Em-ma-nu-en (Thiên chúa ở cùng chúng ta)!
Một vị thượng tế cười khẩy:
- Giu-đa, nhà ngươi hãy nhìn đây: còn ai nhiều đức tin và lòng ngưỡng mộ Thiên Chúa hơn  đám chúng ta. Có ai mà am tường, thuộc Kinh Thánh hơn cánh ta! Vậy lẽ nào Thiên Chúa không chọn một thục nữ trong giới thượng đẳng để đầu thai mà lại chọn tiện dân Ma-ri-a?
- Thiên Chúa không chọn một thục nữ trong giới thượng lưu bởi Thiên Chúa sợ thói kiêu hợm của loại người đó xa lạ với sự thần thiện của Đức chúa con. Trinh nữ Ma-ri-a tiện dân mà hình hài tuyệt mĩ, cốt cách cao thượng, lòng lành vô cùng. Đức Giê-su đã được mẹ Ma-ri-a cho thừa hưởng tất cả những gì là tinh cốt nhất của một thiên thần hiện hữu nơi trần thế. Vẻ đẹp giản dị mà cao sang của người khiến muôn dân chiêm ngưỡng. Lòng lành và phép mầu nhiệm của người đã cứu độ mọi sinh linh...
Một vị thông thạo Kinh Thánh ngắt lời Giu-đa Ít-ca-ri-ốt:
- Nhà ngươi ngu muội quá rồi! Nhà ngươi không lấy làm hổ thẹn khi một gã thợ mộc như Giê-su lại có thể đóng vai kẻ làm sáng danh Chúa?
Giu-đa đáp:
- Thiên Chúa ban cho người nghề thợ mộc để người biết thương bao nhiêu thợ mộc khác. Đức Giê-su từng làm thợ mộc nên mới chọn Phê-rô, một dân chài làm môn đệ của người. Và tôi nữa, một kẻ vô danh tầm thường, nếu không được người nâng đỡ, chẳng hiểu bây giờ phiêu bạt chốn nao? Phải, Đức Giê-su từng bao phen nhỏ lệ chốn bình dân nên người mới truyền dậy những ai có đức tin nơi người những lời thiêng liêng như thế này:
“ Tất cả những ai biết mình nghèo khó trước Thiên Chúa, hãy vui mừng vì nước Trời là của họ.
Tất cả những ai không đùng bạo lực, hãy vui mừng vì Thiên Chúa sẽ ban đất cho họ.
Tất cả những ai ao ước ý muốn của Thiên Chúa được thực hiện, hãy vui mừng vì Thiên Chúa sẽ thực hiện lòng ao ước của họ.
Tất cả những ai có lòng xót thương, hãy vui mừng vì họ sẽ được thấy Thiên Chúa.
Tất cả những ai xây dựng hòa bình, hãy vui mừng vì Thiên Chúa sẽ tiếp đón họ như con của ngài.
Tất cả những ai bị bách hại vì giữ đúng ý muốn của Thiên Chúa, hãy vui mừng vì nước Trời là của họ”...
- Thôi đi nào! – một vị thượng tế quát lên – tất cả những lời hay ho ấy chưa thể làm bằng chứng nói rằng Giê-su là một kẻ nhân danh Chúa.
- Thì tôi sẽ nói tiếp để các ông nghe – Giu-đa đáp – vì thời gian lúc này là rất quý giá đối với các ông và tôi nên tôi chỉ kể hai trong số hàng trăm sự việc mà tôi theo hầu Giê-su đã từng chứng kiến.
Sự việc thứ nhất:
Chiều hôm ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Chúng ta sang bờ bên kia!”. Họ lên thuyền và chèo đi. Bỗng nhiên một trận gió lớn nổi lên. Dưới sông sóng bạc đầu. Trên trời mây đen vần vũ. Sóng dùa qua mạn thuyền, lòng thuyền ngập nước. Trong lúc đó Đức Giê-su vẫn nằm ngủ phía khoang lái. Các môn đệ đánh thức người dậy và nói: “Chúng ta chết đến nơi rồi, thầy chẳng lo gì sao?”. Đức Giê-su vươn mình đứng dậy. Người ngăn đe gió và truyền cho sông biển: “Im đi! lặng đi!”. Gió liền ngừng thổi và sông biển bồng êm ả như không có chuyện gì vừa sẩy ra. Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Tại sao các con sợ? Tại sao các con không có lòng tin?”. Các môn đệ nhìn nhau nói: “Người là ai mà cả gió và sông biển cũng phải nghe lời?”
Sự việc thứ hai:
Đức Giê-su muốn ở một mình với các môn đệ, nhưng dân chúng cứ theo người rất đông, họ muốn người nói với họ điều gì đó về đời sống mà Thiên Chúa ban cho. Người không chối từ. Người nói với họ toàn những  điều có khả năng băng bó những vế thương tinh thần mà trong cõi đời thống khổ họ nếm trải.
Trời đã gần tối, cả mười hai môn đệ đi đến bên Giê-su và nói: “Xin thầy cho dân chúng về lại làng tìm chỗ trọ và tìm thức ăn, ở đây hoang vu  không có gì, chỉ toàn nước là nước!”. Đức Giê-su bảo họ: “Các con hãy cho đồng bào của mình ăn đi!”. Các môn đệ đáp: “Chúng con chỉ có năm cái bánh và hai con cá, trong khi số người đi theo thầy có khoảng hơn năm ngàn, cả đàn ông, đàn bà và trẻ nhỏ”. Đức Giê-su truyền cho các môn đệ: “Hãy nói với họ ngồi thành từng nhóm năm mươi ngươi một!”. Các môn đệ nhanh chóng làm như lời người. Đức Giê-su cầm lấy cái bánh và hai con cá. Người ngước mắt lên trời cầu nguyện, rồi người bẻ bánh và cá trao tay các môn đệ để họ phân phát cho từng người dân. Mọi người có mặt đều được ăn, không một ai bị bỏ đói.
Giu-đa kể xong hai sự việc thì các thầy thượng tế và các thầy thông thạo Kinh Thánh phá lên cười nhạo báng. Vị đứng đầu trong đám ấy nói:
- Này Giu-đa, nhà ngươi tin yêu Giê-su nhường ấy sao nỡ mang dã tâm phản thầy?
Giu-đa đáp:
- Vì tôi cần cái mà Giê-su không bao giờ ban phát cho riêng tôi. Người chỉ có thể ban phát cho tất cả bầy chiên của người...
- Tiền?
- Phải, tiền!
- Thứ này bọn ta lại không thiếu – kẻ đứng đầu trong đám nói – Nào, nhà ngươi cần bao nhiêu? Mười đồng hay hai mươi? Thôi thì ba mươi đồng vậy! Ngươi cầm lấy và đi bắt Giê-su về nộp, mau!
Trông thấy tiền, mắt Giu-đa sáng lên man dại. Gã quỳ xuống đưa hai tay ra đón lấy những đồng tiền từ tay các thầy thượng tế và các thầy thông thạo Kinh Thánh. Gã nâng tiền lên miệng hôn, rồi bảo:
- Đức Giê-su đang đi đàng trước kia. Có hàng trăm người bảo vệ. Họ đang hành hương về Giê-ru-sa-lem để hoàn thiện nước Chúa. Mình tôi sẽ không bắt được. Các ông hãy cùng đi theo tôi. Đức Giê-su thường ẩn mình, lẫn với các môn đệ. Khi nào tôi ra ám hiệu đặc biệt với một người trong đám đông thì các ông xông đến bắt!
Các thầy thượng tế và các thầy thông thạo Kinh Thánh liền đi theo Giu-đa. Lúc ấy chiều đã ngả hoàng hôn. Đức Giê-su ngồi cùng với các môn đệ bên bàn ăn. Lúc Giu-đa lẻn vào thì người đang nói: “Thầy rất ao ước dùng bữa tiệc Vượt Qua này trước khi chịu đau đớn. Thầy bảo thật các con, thầy sẽ không ăn tiệc này nữa trước khi nước Thiên Chúa được hoàn thành. Nói rồi người cầm lấy bánh, tạ ơn, bẻ ra trao cho các môn đệ. Người nói: “Các con cầm lấy mà ăn. Này là Mình thầy sẽ bị nộp vì các con”.
Vào cuối bữa ăn, người cầm lấy chén rượu, làm dấu tạ ơn, trao cho các môn đệ và nói: “Tất cả các con cầm lấy mà uống. Này là chén Máu thầy, máu giao ước mới, giao ước vĩnh cửu, sẽ đổ ra cho các con và mọi người được tha tội. Các con hãy làm việc này mà nhớ đến thầy”.
Giu-đa Ít-ca-ri-ốt cố giữ vẻ mặt lạnh lùng mà không sao giữ được, bởi gã đang rất sốt ruột. Gã chưa biết phải dùng ám hiệu như thế nào để báo cho các thầy thượng tế và các thầy thông thạo Kinh Thánh nhận ra Đức Giê-su. Gã ăn uống uể oải, lơ láo, thỉnh thoảng lại nhìn trộm hoặc quay mặt đi để tránh cái nhìn của Đức Giê-su và các môn đệ.
Bữa ăn kết thúc. Đức Giê-su đứng dậy lấy chiếc khăn mặt thắt ngang lưng. Người đổ nước vào một cái chậu rồi bắt đầu rửa chân cho các môn đệ. Si-mon Phê-rô không muốn được hầu hạ như vậy, ông hỏi: “Lạy thầy, thầy muốn rửa chân cho con sao?”. Đức Giê-su đáp: “Sau này con sẽ hiểu việc thầy làm cho con ngày hôn nay”. Phê-rô lại nói: “Thưa thầy, con không muốn, hoàn toàn không muốn thầy phải rửa chân cho con”. Giê-su nói: “Phê-rô, con nghe đây, nếu thầy không rửa chân cho con thì con sẽ không được dự phần vào việc của thầy”. Phê-rô như đã hiểu ra, liền thưa: “Lạy thầy, nếu vậy, xin thầy không những rửa chân mà còn rửa cả tay và đầu cho con nữa”.
Đức Giê-su trở lại bàn, nói với tất cả các môn đệ: “Các con có hiểu việc thầy mới làm không? Các con gọi ta là thầy, là Chúa, đúng thế; vậy nếu thầy đã rửa chân cho các con, thì các con cũng hãy biết rửa chân cho nhau. Các con hãy yêu thương nhau như thầy đã yêu thương các con. Đó là dấu chỉ riêng biệt của các con. Nếu các con biết yêu thương nhau như vậy mọi người sẽ nhận ra các con là môn đệ của thầy. Người có tình yêu lớn nhất là người dám chết vì bạn hữu mình...
Giu-đa nghe đến đó, con tim gã cũng xao động một thoáng. Gã tự hỏi: “Tại sao những gã môn đệ kia không đền đáp lại tình thương của người bằng một cái hôn nhỉ? Ta chưa bao giờ thấy đám họ dám hôn thầy như ta đã từng làm. Phải rồi, ta sẽ dùng cái hôn làm ám hiệu riêng của ta”.
Màn đêm đã bắt đầu buông xuống. Đức Giê-su bước ra một khu vườn dưới chân núi Cây Dầu. Các môn đệ đi theo người. Đến giữa khu vườn, Đức Giê-su dừng lại nói: “Hãy cầu nguyện để đứng vững trong cơn cám dỗ”. Rồi người quỳ xuống cầu nguyện: “Lạy cha, nếu cha muốn, con có thể cất cho con sự đau khổ và cái chết. Nhưng xin đừng làm theo ý con mà hãy làm theo ý Cha”.
Trong nỗi buồn khổ sầu xứ, Đức giê-su đi một mình về phía cuối vườn, tiếp tục cầu nguyện rất sốt sắng, đến nỗi mồ hôi người đỏ tươi như như những giọt máu nhỏ xuống đất. Sau đó người quay lại đi về phía các môn đệ. Sự mệt mỏi và nỗi lo âu đã làm các môn đệ ngủ thiếp đi. Đức Giê-su nói: “Nào các con hãy dậy đi! Dậy đi và hãy cầu nguyện chuẩn bị chống đỡ với những thử thách mới”.
Đức Giê-su vừa nói đến đó thì các thầy thượng tế và các thầy thông thạo Kinh Thánh xuất hiện. Giu-đa Ít-ca-ri-ốt dẫn đầu. Hắn tiến đến trước mặt Giê-su. Hắn dang tay ôm lấy Người mà hôn thắm thiết. Đức Giê-su hỏi: “Giu-đa, anh phản bội ta bằng cái hôn này sao?”. Lúc ấy các môn đệ hiểu rằng những người này muốn bắt và đem Đức Giê-su đi, họ hỏi: “Thưa thầy, chúng con tuốt gươm chém được không?”. Một người trong nhóm rút gươm chém đứt một bên tai một kẻ trong đám thượng tế. Đức Giê-su can: “Này con, hãy nghe ta, dừng tay!”. Rồi người cúi xuống nhắt cái tai lên ghép vào đầu người bị nạn, máu cầm, tai liền lại. Nhưng hành động nghĩa hiệp ấy của người vẫn không làm các thầy thượng tế và các thầy thông thạo Kinh Thánh chùn tay. Họ bắt Đức Giê-su giải đi. Đi được một quãng, các thầy thượng tế và các thầy thông thạo Kinh Thánh nhìn thấy Giu-đa quỳ bên một gốc cây, miệng vừa lầm rầm cầu nguyện vừa hôn lên những đồng tiền. Người đứng đầu trong đám nói:
- Giu-đa! Nhà ngươi đã dùng cái hôn làm ám hiệu dẫn tử thần đến với thầy của ngươi, giỏi lắm! Đáng khen!
Giu-đa không trả lời. Gã ngước nhìn theo cái lưng Giê-su như gẫy gập xuống bởi người phải cõng một cây thánh giá khổng lồ. Chỉ ít ngày sau đó, Đức Giê-su đã bị giải đến Phong-xi-ô Phi-la-tô, tổng trấn Rô-ma để chịu sự nhục mạ và một cái chết đau đớn, độc đáo, khủng khiếp chưa từng có trên mắt đất: đóng đanh câu rút lên cây thánh giá!
  Viết: Lễ phục sinh 1995
  Sửa chữa: Lễ Phục sinh 2010