Trang chủ » Truyện

CON NGƯỜI BỊ LÃNG QUÊN

Đắc Trung
Thứ tư ngày 29 tháng 4 năm 2009 6:29 AM
      Vào công tác Sài Gòn lần này tôi đưa cả vợ đi cùng. Mặc dầu đã bàn đi tính lại chán, vậy mà tới hôm sắp đi cô ấy vẫn ngần ngại. Ngại vì ... xem ra tốn tiền quá. “Hay là ...hay là...”. Cô ấy chưa nói hết tôi đã cười gạt phắt: “Ôi dào, cứ băn khoăn lo lắng kiểu như em thế thì rồi suốt đời chẳng được đi đến đâu. Vợ chồng mình lấy nhau đã ngót hai chục năm, nhưng thử hỏi đã bao giờ được gần nhau trọn vẹn. Hồi chiến tranh anh cứ hết B ngắn lại B dài biền biệt. Hoà bình thì vẫn cứ mỗi đứa một nơi. Mấy tháng anh mới tranh thủ về được vài ba ngày. Vả lại lần nay anh thu xếp nghỉ hẳn một tháng, vào trong đó viết cho xong cuốn tiểu thuyết đã ký hợp đồng với Nhà xuất bản Đồng Nai. Chị Thanh Thảo, giám đốc với anh là học cũ, lại cũng quen biết em từ trước, lẽ nào lại chẳng cho mình tạm ứng ít tiền và thu xếp cho một nơi yên tĩnh để làm việc. Ồ, còn dịp nào thuận lợi hơn dịp này . Mình sẽ sống lại cái tuần trăng mật và bù đắp lại những năm xa cách trong chiến tranh. Anh...anh...sẽ yêu em gấp trăm, gấp ngàn lần ...Tôi chưa nói hết câu đã bị bà xã xoắn tai béo cho thật đau, kèm cái lườm và một lời trách rất chi là âu yếm: “Già rồi mà còn ...”. “Già là già thế nào. Anh còn tơ chán”.Vậy là tôi chèo kéo đựơc bà xã đi cùng trong chuyến viễn du kỳ thú này.
      Quả thật nhà xuất bản đã dành nhiều ưu ái cho chúng tôi. Không chỉ cho tạm ứng tiền, mà còn thuê cho vợ chồng tôi một căn phòng loại sang của khách sạn Oscar trên đường Nguyễn Huệ. Căn phòng thoáng mát. Buổi chiều, buổi tối có thể đứng trên ban công nhìn tuốt tới đường Lê Lợi nhộn nhịp sầm uất. Hoặc đón gió nồm nam từ sông Sài Gòn qua cảng Bạch Đằng thổi tới. Oscar vốn là cư xá của bọn sĩ quan cố vấn quân sự Hoa Kỳ nên mọi thiết bị sinh hoạt đều rất đầy đủ và hiện đại. Gian phòng rộng, vuông vắn, sàn dán bằng loại chất dẻo in hoa nhẵn bóng. Chiếc giường đôi kê giữa, trên đệm phủ vải đơ-ra trắng tinh và chiếc gối tròn dài thơm nức mùi nước hoa ngoại hảo hạng. Phía trong là chiếc tủ đứng bằng gỗ cẩm lai vân rất đẹp. Cánh tủ có gắn chiếc gương lớn. Cạnh đó là bộ sa-lon, ghế đệm mút bọc vải giả da màu mận chín. Lùi vào chút xíu là bàn viết, mặt sơn mài đen bóng, trên đó nào chặn giấy bằng viên đá cẩm thạch nhiều màu hình lục giác, ống cắm bút bằng sừng trắng, đế đèn bằng ngà voi có trạm khắc tinh vi, chao đèn bằng lụa quý thêu hoa, chiếc ghế tựa dầy, êm, gắn ổ bi ở giữa có thể xoay bất kỳ hướng nào. Trong phòng còn máy điều hoà nhiệt độ, ti-vi, tủ lạnh, buồng tắm, toa-let, điện toại ...vân...vân...
      Cán bộ, nhân viên khách sạn người quê Bắc, người quê Nam, có người mới tuyển nhưng cũng không ít những nhân viên lưu dụng tời Mỹ-nguỵ làm việc ở cư xá này. Biết tôi viết văn hầu hết trong số họ đều dành cho tôi cảm tình đặc biệt. Vợ chồng tôi sống gần gũi chan hoà, thân mật với họ và họ cũng thế. Những giờ nghỉ, thường vào các buổi chiều, chúng tôi quây quần trong phòng khách lầu một, rất rộng, có những bộ sa-lon cực sang, những đôn sứ trồng cây cảnh rất đẹp, những bức tranh quý của các hoạ sĩ nổi tiếng để tán chuyện tào lao, cười vui thoải mái. Đặc biệt trưởng phòng Quản Lý khách sạn, một người đàn ông đã đứng tuổi, đầu hói tít, khi đi hai tay càng ra vung vẩy, dễ tính và hảo tâm, sẵn sàng vét tới đồng xu cuối cùng  trong bót để mua la-ve khao anh em nhậu lai rai với đậu phộng. Ông trưởng phòng vốn là chủ một tiệm nhậu lớn trên đường Lê Lai. Nhờ có người bà con trong họ làm cán bộ ở Phòng Tổ Chức trên “Công ty khách sạn” mà ông được chọn vào làm việc ở đây, lại giữ chân trưởng phòng Quản Lý quyền hành không nhỏ. Cái tiệm nhậu của ông cậu con cả thế chân hốt bạc không biết bao nhiêu mà tính. Bởi vậy ông càng có điều kiện giao du với các nhân vật quan trọng của cái ngành phục vụ béo bở này. Đối vợi vợ chồng tôi, ông trưởng phòng Quản Lý tỏ ra hết sức vồn vã, hào phóng. Tôi cũng chẳng biết lý giải điều ấy ra sao.
      Trong số những nhân viên lưu dụng, tôi đặc biệt quan tâm, nói đúng hơn là rất có ác cảm với một ông già làm nhân viên thu dọn phòng trên lầu bẩy của tôi. Đó là một người rất khó đoán tuổi. Mới nhìn có thể tưởng ông đã ngoài bẩy mươi, nhưng ngắm kỹ mới thấy ông ta chỉ khoảng hơn năm mươi, hoặc ngót sáu mươi là cùng. Thân thể đã gầy lại luôn bó mình trong bộ đồ Âu rộng thùng thình nên gương mặt càng khắc khổ xương xảu, xám ngắt. Bộ tóc muối tiêu rụng nhiều còn lại rất thưa để lộ cái trán hơi dô hằn rõ mấy đường gân xanh bò ròng ròng tuốt tận mang tai. Ở gương mặt ấy chưa bao giờ tôi thấy ánh lên một nét vui. Ông ít nói đến kỳ lạ. Bí mật như một ngôi mộ cổ. Lặng lẽ vật vờ như một bóng ma và luôn đãng trí như kẻ mất hồn. Đã nhiều lần tôi cố tìm cách gợi chuyện ông già ấy, nhưng hoàn toàn vô hiệu. Trước mặt tôi ông chỉ đứng im bất động như một pho tượng. Mời ngồi, ông khẽ lắc đầu. Mời nước, mời la-ve, mời trái cây ông cũng chỉ im lặng lắc đầu. Ông cố gắng dùng những động tác gật, hoặc lắc để thay cho ngôn ngữ. Ông làm việc cần mẫn đến kỳ quặc. Dầu vậy, nếu chỉ thế thì chẳng có gì làm tôi ác cảm với ông.
      Tôi ác cảm với ông già kỳ quặc này vì nguyên cớ khác.
      Quy định của khách sạn, người phục vụ chỉ được phép vào làm việc như cọ rửa toa-let, lau sàn, thay hoa tươi vào lọ đặt trên bàn...khi khách thuê phòng đi vắng. Bởi thế cửa phòng luôn có hai chốt. Chốt lớn dùng để khoá, còn chốt nhỏ dùng cho khách thuê phòng khi ở trong mà không muốn cho ai vào thì khẽ đẩy qua ngang để hãm chốt lớn. Lúc đó dù người ở ngoài có tra chìa vào ổ khoá cũng không thể mở được. Nhưng thật rủi. Căn phòng số 702 của tôi bị hư chốt nhỏ. Vì vậy ông già có thể vào được bất kỳ lúc nào.
      Một lần tôi đang ngồi say mê viết bỗng cảm thấy có người mở cửa bước vào. Tưởng vợ tôi ra phố mua trái cây về, sợ phá vỡ cảm hứng sáng tác của tôi nên rón rén nhẹ nhàng chăng ? Tôi vẫn vừa cắm cúi viết vừa hỏi, giọng âu yếm:
- Mua gì về cho anh vậy, em yêu ?
      Không có tiếng đáp. Chà, cô nàng định chơi trò ú tim với mình chắc ? Tôi nghĩ thế và cố viết cho hết những ý, những tình đang dào dạt trong đầu. Lát sau mới buông bút ngẩng lên, đinh ninh sẽ bắt gặp đôi mắt đen láy đầy tình tứ của vợ. Nhưng than ôi, trước mặt tôi là lão già kỳ quặc ấy. Lão đứng im, đầu hơi cúi, đôi mắt xám lạnh lơ đãng nhìn xuống sàn, một tay buông thõng, tay kia xách chiiếc sô bằng nhựa màu xanh nhạt.
- Bác cần gì ? – Tôi hỏi, cố dấu vẻ khó chịu.
Ông già vẫn không nói, chỉ khẽ lắc đầu đưa mắt nhìn về phía buồng tắm, ngần ngừ một lúc, rồi lặng lẽ bước ra.
      Lần khác, cỡ chừng tám giờ sáng. Sau khi ăn điểm tâm vợ chồng tôi nằm trên giường. Những lúc thế này người ta không muốn, dù chỉ một con kiến có mặt trong phòng. Vậy mà cửa bỗng mở và cái lão già kỳ quái đó bước vào. Vợ tôi hốt hoảng vơ vội tấm vải đơ-ra che bộ ngực trần. Còn tôi gần như chồm dậy, hai mắt nảy lửa nhìn về phía lão già, giọng rít lên:
- Thật là bất lịch sự, vô văn hoá. Tại sao ông không gõ cửa ?
        Mặt ông già bỗng sắt lại, đôi mắt mờ đục sầm tối, cái đầu gầy trơ xương rũ xuống. Và vẫn im lặng như một ngôi mộ, ngơ ngẩn như kẻ loạn trí, ông ta mở cửa bước ra khỏi phòng.
      Từ bữa đó, mỗi khi cần vào phòng ông già đều gõ cửa. Nhưng rồi sự đãng trí đến khó hiểu lại khiến ông vi phạm cái nguyên tắc tối thiểu ấy.
      Một buổi chiều, tôi say sưa ngồi viết. Vợ tôi vừa tắm xong, chưa mặc áo, đang đứng trước gương xoã tung bộ tóc đen nhánh cho mau khô. Bỗng cô ấy thét lên chạy vội vào buồng tắm. Tôi giật mình quay lại.Thì ra vẫn lão già kỳ quặc ấy mở cửa bước vào. Máu nóng bốc lên. Tôi bật dậy khỏi ghế. Nếu ông ta không kịp đóng cửa quay ra thì cái chặn giấy bằng đá cẩm thạch hình lục giác đã bay về phía đó. Suốt từ lúc ấy tôi không thể viết thêm đựơc dòng nào nữa. Trong đầu luôn vẩn lên những bực dọc khó chịu. Hình ảnh lão già đã phá vỡ hết cảm xúc của tôi.
      Gần tối, như thường lệ, chúng tôi lại xuống phòng khách lầu một tán chuyện tào lao với những nhân viên khách sạn cho khuây khỏa. Ông trưởng phòng Quản Lý hôm nay chẳng biết gặp may hay « trúng trồi », « thắng quả » chi mà coi bộ vui dữ và hào phóng hết mức. Ông thả bạc chi cả két « Bia 333 » và mồi nhậu toàn lọai sang: tái dê, mộc tồn, chả nướng, mực khô, nem chua Thủ Đức ... Ông tuyên bố mọi người cứ nhậu lai rai cho đã, hết lại mua, ông bao tuốt luốt. Thấy tôi có vẻ đăm chiêu không hồ hởi như mọi bữa, ông hỏi liền :
- Anh Hai bữa nay trong người khó ở hay kẹt chuyện chi mà ngó bộ rầu rầu như cây chiều tắt gió vậy, anh Hai  ?
     Tôi im lặng. Đắn đo xem có nên nói hay không.  Cũng cần phản ánh việc này cho trưởng phòng Quản Lý biết lắm chớ, tôi nghĩ thế và thong thả kể lại tất cả những việc về ông già kỳ quặc ấy. Nghe xong mọi người nhao nhao :
- Ký giả ơi, chấp chi với lão già đó. Ổng ngây mà.
- Ổng loạn trí đó, ký giả ơi. Tụi tui đây nè cũng hết chị nổi
với ổng nữa là... Thôi cho qua nghe. Hơi sức mấy mà kẹt về chuyện đó cho mệt. Cụng ly thiệt đã ký giả ơi.
- Nào cụng ly, anh Hai, chị Hai.
- Xin mời anh Hai, mời chị Hai.
     Trường phòng Quản Lý thản nhiên làm một hơi cạn ly la-ve, đôi bàn tay mập ú kéo rẹt qua mép, nhai nghiến ngấu, nuốt gọn miếng nem chua đại, cầm chai rót đầy hai ly la-ve khác, đưa tôi một, ông một, nâng ngang mặt nói :
- Trời ơi, anh Hai bận tâm chi ba cái việc tầm bậy tầm bạ đó cho kẹt, anh Hai. Lão già bị loạn trí, ngây ngây hoài ... Mà, nghĩ cảnh ổng cũng tội quá. Vợ chết, bốn thằng con trai cũng chết ráo trọi. Còn trơ lại mình ổng...Dạ, bả trước làm nghề buôn trái cây ròng ròng mịêt chợ Tân Bình. Một bữa đáp xe đò xuống Lái Thiêu mua hàng, vô phước đụng lính ông Thiệu ruồng bố, đạn pháo làm bả bể giò, đem được đến nhà thương Chợ Quán thì chết. Ổng có bốn thằng nhỏ thì ba thằng bị bắt đi quân dịch làm lính ông Thiệu. Thằng Út may theo người dượng ra Tuy Phước làm ét xe đò rồi vô bộ đội giải phóng. Lần lần cả bốn đứa đều tử trận hết trơn. Ổng buồn quá cứ đau bệnh hoài, rồi sinh đãng trí, chớ ổng làm việc vẫn tốt. Ổng có căn nhà nhỏ chút xíu mãi hẻm trong Tân Định nhưng cũng ít khi ổng về đó lắm. Làm ở đây, ăn ở đây và buổi tối ổng cũng ở lại đây liền. Năm nay cơ quan cũng tính cho ổng nghỉ hưu, nhưng phần ở đây chỉ có mình ổng là người am hiểu tường tận về hệ thống điện nước ngầm, hư đâu kêu là ổng sửa được lền, chớ những người khác chịu hết trọi... Bởi ổng làm việc trong cái cư xá này từ hồi mấy cha Mỹ mới qua Nam phần. Mặt khác nữa nghe đâu thằng con thứ ba của ổng tuy đeo lốt lính ông Thiệu nhưng hắn làm cho phía Cách mạng. Cái việc thẳng nhỏ chết sẽ đựơc coi như liệt sĩ. Việc này mấy ông cấp trên còn đang tra xét, xác minh để từ đó mà  quyết định quyền lợi hưu trí cho ông già. Đợi chút đỉnh khi tụi tui kiếm được người thay thế công việc của ổng và cũng đợi cấp trên tra xét, minh xác cái công lao của thằng nhỏ đối với Cách mạng thì cho ổng về. Thôi bỏ qua việc lão già ngây đó đi, nghe anh Hai. Khỏi bận tâm vì chuyện đó...Xin mời anh Hai cụng ly, làm một hơi liền nghe anh Hai... Khà, người Anh họ có câu ngạn ngữ : « Hạnh phúc ở đáy ly », đúng thiệt, chí lý thiệt - ngửa cổ cạn hết ly la-ve, ngồi đăm chiêu chút xíu, ông trưởng phòng Quản Lý thong thả nói – mà anh Hai nè, từ bữa có anh Hai, chị Hai về đây, tính tình ông già kỳ cục hết nỗi. Mấy lần ổng tò mò hỏi tui về anh Hai. Rằng anh Hai là ký giả, nhưng trước đó anh Hai có là bộ đội giải phóng không ? Có vô đánh Sài Gòn hồi cuộc chiến Mậu Thân không ? Tui làm bộ dữ : « Việc đó đâu có thuộc chức trách tìm hiểu của ông ». Ổng im lặng. Mà cũng từ bữa đó ổng sinh đãng trí nhiều hơn, tính tình cũng kỳ quặc hơn.
      Nghe ông trưởng phòng Quản Lý e hèm mấy lần như mắc cỡ điều chi, lát sau mới dè dặt nói :
- Anh Hai nè, tui có công chuyện mấy bữa định thưa với anh Hai mà cứ ngại vì thấy anh Hai say viết sách. Bữa nay tui nói thiệt tình, mong nhờ anh Hai giúp nghe. Anh Hai ở đây với tụi tui đã hơn tuần lễ. Công việc của tụi tui làm anh Hai đều có biết. Thôi, những chuyện chi dở thì trong những lúc nhậu lai rai vui vẻ thế này anh Hai cứ phê bình liền, tụi tui xin tiếp thu ráo trọi và cũng xin sửa liền. Còn những việc gì hay thì xin anh Hai viết cho mấy bài đưa lên mặt báo, nếu đăng kèm cho vài tấm hình nữa thì nhứt. Mấy bố trên Công ty muốn ưng cái Oscar của tụi tui, nhưng còn e mấy tay chủ nhiệm khách sạn khác không chịu. Bởi thế cần phải có mấy bài báo để làm cái bùi nhùi tống vô họng mấy cha đó. Việc này tụi tui chỉ trông nhờ ở anh Hai thôi. Anh Hai ưng liền nghe. Nào xin mời anh Hai cụng ly !
      À, thì ra mấy bữa nay ông trưởng phòng tỏ ra hào phóng với tôi là nhằm cái đích đó. Tôi cười, nâng ly mà không cạn.
      Sáng hôm sau vợ chồng tôi đi Vũng Tầu chơi.
     Qua ba ngày trở lại chính căn phòng cũ ở Oscar mà tôi thấy lạ hẳn. Cái gì cũng thay đổi, mới hơn, sạch hơn, thơm ngát hơn, từ tấm đơ-ra phủ đệm bằng vải trắng giờ thay bằng tấm lụa đắt tiền có thêu hai con chim phuợng, cặp gối cũng thế, lọ hoa tươi để trên bàn cũng thế, ly, tách, cho tới bình thuỷ tinh, rèm che cửa, xà bông, nước hoa... cũng thế. Mới hết. Toàn lọai sang. Chà, tự nhiên mình bỗng trở nên thượng khách, vì lý do gì ? Nhà xuất bản thay giá tiền thuê phòng ? Hay đây là sự ưu ái đặc biệt theo lệnh của ông trưởng phòng Quản Lý khách sạn ?
      Đứng ngây giữa phòng, ngó quẩn, bỗng mắt tôi dừng lại một tấm ảnh ai để ngay ngắn trên bàn. Tôi cầm lên và bàng hoàng xúc động. Tôi vẫy vợ lại gần. Cả hai chúng tôi đều ngơ ngác nhìn nhau. Đó là tầm ảnh vợ tôi lúc mười tám tuổi. Mái tóc uốn rất khéo, chiếc áo dài thướt tha mềm mại bó lấy thân hình tròn lẳn duyên dáng. Đôi mắt đen láy mơ màng hơi đượm vẻ ưu tư nhìn đăm đắm. Tấm ảnh này em tặng tôi khi hai đứa mới yêu nhau. Tôi trân trọng lồng nó trong một lớp vỏ nhựa trắng trong suốt vừa tầm cỡ như tấm giấy chứng minh. Không thể bị dập gãy, không thể bị ẩm ướt. Suốt những năm chiến đấu gian khổ hết chiến trường này đến chiến trương khác lúc nào tôi cũng giữ tấm hình đó trong túi áo ngực bên trái. Mỗi khi buồn nhớ, thậm chí ngay giữa lúc hành quân, tôi lại lén giở ra ngắm, thầm thì tâm sự với em cho khuây khoả.
      Thế rồi bỗng dưng tấm ảnh bị thất lạc.
      Đó là dạo Tổng tấn công Mậu Thân (1968). Tiểu đội tôi lãnh nhiệm vụ đánh thọc sâu. Chừng hơn 12 giờ đêm chúng tôi đã áp sát cảng Bạch Đằng đánh thốc về đường Võ Duy Nghi, Huỳnh Thúc Kháng, rồi quẹo theo hướng đại lộ Nguyễn Huệ. Khắp mọi phía mịt mù lửa khói. Tiếng nổ điên loạn. Tiếng reo hò, la lối, gào thét...Chớp loe loé từ những hoả điểm. Đạn rít nghe rợn người. Dây lưng đeo đầy thủ pháo, dao găm, nách kẹp AK, tay đặt sẵn trong vòng cò súng, tôi lật chiếc mũ tai bèo bị cháy xém một mảng về phía sau lưng cho đỡ vướng và cứ thế lao vút lên. Vượt qua đại lộ, tôi xông vào một khu cư xá cao ngất. Từ những tầng lầu đạn đại liên, M.16 qụat xuống như mưa. Thủ pháo liệng tơi bời nổ chát chúa trên mặt đường nhựa. B.40 nổ. Vầng lửa màu da cam trùm lên. Cả mảng tường đổ rụi. Từng loạt AK quét. Sa-lon, đệm mút, chăn mùng cháy. Đường sữa, đồ hộp tung toé. Những bóng người loang loáng vút qua. Súng lại nổ dữ dội hơn. Lửa càng bốc to hơn. Tiếng la thét trong cư xá nghe khủng khiếp hơn. Tôi nghiến răng xiết gần hết băng AK vào một góc lầu. Nơi đó lố nhố bốn năm chiếc mũ sắt. Tiếng rú. Tiếng giầy đinh đạp đất chạy. Bỗng một trái M.76 nổ ngay bên trái. Lửa bùng lên táp vào mặt tôi bỏng rát. Toàn thân tôi bỗng chơi vơi. Và rồi từ đó không còn biết gì nữa...
      Tôi xỉu không biết bao lâu. Chẳng hiểu những gì đã xảy ra xung quanh. Khi tỉnh tôi cảm thấy mình nằm trên sàn nhà lạnh. Giơ tay lên đụng vật chi rất cứng. Sờ tới, sờ lui biết mình nằm dưới gầm chiếc giường khung sắt mạ kền nhẵn thín, trên trải đệm mút. Huơ tay ra hai bên thấy có vải buông che, hẳn là tấm đơ-ra thả chùng xuống chấm sàn. Tôi co một chân, rồi co hai chân. Tốt. Tôi sờ lần lượt từ đầu, qua ngực, qua bụng. Tốt. Không có máu. Không đau. Có nghĩa không bị thương. Nhưng đôi mắt thì nhức nhối kinh khủng và không nhìn thấy gì hết mặc dầu không sưng, không có máu, thậm chí một vết sước nhỏ cũng không. Vậy thì tại sao ? Tại sao mà lại không nhìn thấy ? Do chấn động ảnh hưởng dây thần kinh chăng ? Do khói đạn làm hư đồng tử, hư giác mạc chăng ? Và, đây là đâu ? Hôm nay là ngày thứ mấy của cuộc chiến ? Quân ta đâu hết ? Các đồng chí cùng tiểu đội đâu hết ? Hy sinh cả rồi sao ? Im ắng quá. Chỉ thỉnh thoảng mới rộ lên vài loạt đại liên hoặc mấy trái đạn pháo nổ xa xa.
      Tôi vừa lật sấp mình toan bò ra khỏi cái gầm giường chết tiệt đó, thì bỗng một bàn tay thô, cứng giữ tôi lại, cùng giọng đàn ông nghe rất khẽ sát tai tôi: “ Chú bị thương kẹt lại đây... Đây là cư xá Mỹ. Hiện có một sĩ quan Mỹ ở phòng này. Hắn vẫn thường nằm trên giường mà chú nằm dưới đó. Phải cẩn thận nghen. Không được thở mạnh, không được ho, ngủ không được ngáy, không được nói sảng... Chừng nào hắn ở nhà chú phải tỉnh, lộ hắn cho tiêu liền đó nghen... Ban ngày hắn luôn đi khỏi chừng đó tui sẽ liệu cho chú ăn, uống, làm vệ sinh. Cứ yên tâm, có dịp là tui sẽ đưa chú ra khỏi đây liền mà dề cứ, nghen. Thôi, dô đi. Dô lẹ đi. Giờ này thằng chả sắp dề rồi đó”
      Người đàn ông vừa nói vừa đẩy tôi vào. Tôi lúng túng vì xúc động, vì bất ngờ, vì lo lắng, không biết nói gì chỉ biết nắm chặt bàn tay người đàn ông đó. Bàn tay bên phải cụt một ngón út và có chiếc sẹo bằng đầu đũa nổi hằn nhẵn thín, nơi gần sát mắt cá eo. Tôi úp bàn tay ông lên mặt mình để tỏ lòng biết ơn, tin cậy.
      Thế là từ bữa ấy tôi sống gần như trọn tuần lễ trong nơm nớp, thần kinh vô cùng căng thẳng giữa cư xá có hàng trăm tên lính Mỹ và sĩ quan nguỵ ở. Ban ngày thường thằng Mỹ đi khỏi, tôi tranh thủ chợp mắt chút xíu mà cứ chập chờn không dám ngủ say. Người hầu phòng tốt bụng mang thức ăn tới, thường là ổ bánh mỳ kẹp bơ, hoặc mấy chiếc bánh quy mềm xốp, một chai nhựa đựng nước lạnh. Tôi không dám ăn nhiều, uống nhiều để khỏi đi tiểu, đi vệ sinh. Hôm đầu người hầu phòng mạo hiểm kéo tôi vào toa-let mở rô-bi-nê xối nước ào ào cho tôi tắm đại, đổi cho bộ đồ ngủ rộng thùng thình. Không hiểu bộ quân phục giải phóng của tôi ông dấu đâu. Tôi cứ băn khoăn lo. Tôi biết ông buộc phải làm thế để xoá đi cái mùi mồ hôi chua loét trong người tôi toả ra và mùi thuốc đạn khét lẹt nữa chứ. Còn từ ngày hôm sau thì khỏi lo. Phòng có máy điều hoà không khí lúc  nào cũng mát, rất dễ chịu. Người hầu phòng hôm đầu vì cần phải báo cho tôi những điều tối cần thiết, chứ còn từ bữa sau ông chỉ im lặng. Ông im lặng luồn thức ăn vào cho tôi, im lặng kéo tôi ra dẫn vào toa-let khi cần, im lặng sờ sờ trên mu mắt tôi kiểm tra xem có vết thương không, xem tôi có nhìn thấy gì không, im lặng đưa tôi chiếc khăn mặt ướt để giúp tôi tỉnh táo... Và, khi tôi vừa cất tiếng nói, dù rất khẽ, ông cũng vội vàng lấy tay bịt miệng tôi lại ngay. Tôi phỏng đoán có thể trong phòng bọn địch gắn máy ghi âm, máy ghi hình hay bất kỳ lọai thiết bị an ninh nào đó chăng. Bởi mỗi khi vào phòng ông đều mở rô-bi-nê cho nước xối ào ào át mọi tiếng động khác, hoặc làm việc che chắn gì đó có vẻ bí mật lắm.
      Cho tới một buổi tối, không khí bỗng nhộn nhạo ầm ỹ khắp cư xá. Bọn Mỹ qua lại tấp nập, tiếng giầy đinh nện ngoài hành lang thình thịch. Tiếng Anh xen lẫn tiếng Việt tùm lum. Hình như bọn chúng đang thực hiện một cuộc điều quân lớn chi đó. Tôi bỗng thấy trong người bồn chồn rạo rực. Tên sĩ quan Mỹ trong phòng tôi vẫn chưa thấy về. Tôi nằm ép mình lắng tai nghe ngóng, phỏng đoán...
      Lát sau có tiếng chìa tra vào ổ khoá. Người hầu phòng kéo tôi ra. Ông ấn vào tay tôi một bộ đồ nặng chình chịch. Chỉ sờ qua cũng biết đó là bộ quân phục rằn ri của lính nguỵ và đặt cạnh chân tôi một đôi giầy da nhà binh, khẽ nói nhanh: “Thay bộ đồ này dô. Mau mau chú. Chút xíu sẽ có người đưa chú ra khỏi đây”. Tôi hồi hộp vội vã thay đồ, đi giầy, tay chân cứ cuống lên. Người hầu phòng vừa ngoắc vô mắt tôi cặp kíêng to bự, chắc kiếng màu đen, thì cửa mở. Một người khác vào: “ Lẹ lên ! Lẹ lên !- giọng một thanh niên thúc hối. Rồi vẫn giọng đó ghé tai tôi thì thào – anh Hai đóng vai sĩ quan bạn tui. Đi đứng cho đàng hoàng. Nếu lính gác có hỏi mật khẩu thì kêu: “Phượng hoàng bay, nghen”. Nói rồi anh khoác tay tôi kéo đi.
     Người hầu phòng tốt bụng khẽ nói: “Đi mạnh giỏi,nghen chú Hai”. Tôi vôi nắm tay ông. Bàn tay phải cụt ngón út và có cái sẹo bằng đầu đũa nổi hằn nhẵn thín nơi gần mắt cá eo, xiết chặt thay lời từ biệt. Người bạn trẻ khoác tay tôi cũng bận quân phục sĩ quan rằn ri. Anh đưa tôi vào cầu thang máy.Tôi cảm thấy thang đi xuống. Chỉ có tôi và anh, anh nói: “Cứ bình tĩnh nghe anh Hai. Tôi sẽ chở anh bằng Honda tới một cơ sở, rồi từ đó ra cứ êm re thôi”.
     Thang máy dừng. Anh khoác tay tôi bước đại ra cửa cư xá. Tôi nghe anh nói gì đó với tụi lính gác, chỉ nghe tụi nó kêu: “Ô-kê, anh Hai, ô-kê”.  Rồi chúng tôi đi. Anh nổ máy Honda tôi ngồi sau. Xe rú ga phóng liền. Đại lộ ầm ã náo nhiệt.
      Ba ngày sau, bằng đường dây bí mật, tôi ra được ngoài cứ, nằm điều trị tại một Quân y tiền phương. Mãi khi ra tới đây tôi mới biết rằng, vì vội vã lúc thay bộ quân phục, tôi quên không lấy lại tấm ảnh người yêu. Nó vẫn nằm trong túi áo bộ đồ ngủ trút ra. Lạc mất tấm ảnh đó tôi buồn vô cùng. Sau này khi còn sống trở về, rồi những ngày bên nhau, mỗi khi nhắc lại việc để mất tấm ảnh đó vợ tôi cũng buồn không kém.
      Hơn mười năm qua đi, bỗng dưng hôm nay tình cờ chúng tôi lại lượm được vật kỷ niệm vô giá ấy. Cầm tấm ảnh vẫn nguyên vẹn như xưa, tôi ngồi lặng đi lòng bồn chồn thổn thức. Biết bao nhiêu câu hỏi đặt ra trong óc về điều kỳ lạ này mà không sao kiếm được lời giải đáp cho thoả đáng. Dù sao cũng phải hỏi. Phải tìm cho ra ông già kỳ quặc ngây dại ấy, hỏi xem những ai đã vào căn phòng này trong mấy ngày vợ chồng tôi đi vắng. Từ đó may ra ...
     Buổi chiều, khi vợ tôi ra chợ mua trái cây, mình tôi ngồi bên bàn chăm chú đọc lại những trang bản thảo mới viết thì cửa mở và ông già bước vào. Vẫn vẻ buồn bã u tối, vẫn lờ đờ ngơ ngẩn như kẻ mất trí, vẫn dáng đi vật vờ như một bóng ma, ông lặng lẽ bước về phía tôi. Bằng cả hai tay ông thận trọng đặt lên bàn, trước mặt tôi một hộp socola hảo hạng kèm theo một mảnh giấy - thư và quà của ông trưởng phòng Quản Lý. Tôi bỗng giật mình khi nhìn bàn tay ông già. Bàn tay phải cụt ngón út, cái sẹo nhỏ bằng đầu đũa nổi hằn nhẵn thín nơi gần mắt cá eo... Trời ! Phải chăng ?...Tôi từ từ đứng dậy, qua ngồi sang ghế sa-lon chăm chú ngắm ông lão từ đầu đến chân, tim tội rộn lên niềm xúc động khó tả. Tôi mời ông già ngồi. Ông lặng lẽ lắc đầu, vẫn đứng như pho tượng. Tôi mời ông dùng trái cây. Ông lặng lẽ lắc đầu từ chối, mắt nhìn về phía cửa ý muốn ra khỏi phòng. Tôi vội đứng dậy cầm tấm ảnh trên bàn đưa ông coi, hỏi nhỏ: “Thưa bác, có phải cái này của bác ?”. ông lão vẫn đứng im, lặng lẽ nhìn, khẽ gật đầu. “ Người trong hình là con gái bác ?”. Ông lão khẽ lắc đầu, đôi mắt lờ đờ buồn bã. “ Thế chắc là người có họ hàng với bác ?”. Ông lão khẽ lắc đầu. “Vậy bác giữ nó làm chi ?”. Ông lão nheo nheo mắt nhìn tôi chăm chú. Lát sau mới khẽ nói, giọng ngắt quãng: “Của một chú giải phóng làm rớt trong cư xá Mỹ hồi cuộc chiến Mậu Thân sáu tám (1968)”. Tim như thắt lại vì cảm động, vì hồi hộp, tôi bước đến nắm lấy bàn tay phải của ông lão, hỏi dồn: “Có phải chú giải phóng đó bị hư hai mắt ?”. Ông già lặng lẽ gật đầu vẻ mặt dường như không hề xúc động. “ Anh ta được bác giấu trong gầm giường tên sĩ quan Mỹ ở một phòng trong cư xá ?”. Ông lão lặng lẽ gật đầu. “ Rồi được một sĩ quan nguỵ đưa về cứ bằng xe Honda ?”. Ông lão lặng lẽ gật đầu.
      Tim tôi bỗng thắt lại, đau nhói, cổ nghẹn tắc đến nghẹt thở. Không thể kìm được thêm nữa, tôi vội vàng quỳ xuống, ấp bàn tay – bàn tay bên phải cụt ngón út và có cái sẹo nhỏ của bác vào mặt mình. Rồi ngước nhìn lên, tôi nói với ông lão giọng run run ứa đầy nước mắt:
- Thưa bác, chú giải phóng đó là con đây. Vâng, chính là kẻ đang quỳ dưới chân bác đây. Bác là ân nhân ... Bác đã nhận ra con ?...
- Dạ, đúng vậy. Tui gặp ông và bà, ngay buổi đầu đã ngờ. Tui hỏi và ...Cũng cốt để hoàn lại ông tấm hình, vậy thôi. Mong ông thứ lỗi.
   Ông lão cúi đầu im lặng.
   Tôi nói, giọng đầy đau khổ hối hận:
- Tha tội cho con, bác ơi. Con... thưa bác... còn người sĩ quan đã đưa con ra bữa đó là ai ?
   Gương mặt vẫn khô lạnh, dường như nỗi đau quá lớn nào đó đã làm tê liệt những xúc cảm trong ông. Ông lão thong thả đáp:
- Nó là thằng nhỏ, con tui.
- Là con trai bác ?
   Ông lão lặng lẽ gật đầu.
- Vậy bây giờ anh ấy ở đâu, thưa bác ?
   Từ hốc mắt sâu tối của ông già, hai giọt lệ ứa ra, lăn dài trên gò má nhăn nheo, ông nói giọng đứt quãng vì đau khổ :
     -   Nó tử trận rồi.
   Trời ơi, lại thế nữa kia. Tôi áp chặt hai bàn tay ông già khốn khổ, vị ân nhân vào hai má đầm đìa nước mắt của mình. Ông lão vẫn lặng lẽ đứng im bất động như một pho tượng đá, đầu hơi cúi, mắt đăm chiêu. Lát sau ông khẽ rút tay về rồi vẫn như một cái bóng không hồn, lặng lẽ hướng phía cửa bước ra.
      Tôi nhìn theo bóng ông rất lâu, rồi gieo mình xuống ghế, bàng hoàng như trong cơn mộng, lòng nhói lên niềm đau khổ và hối hận. Chao ôi, thế mà trước đây, vâng chỉ mấy giờ trước đây thôi, tôi vẫn còn mang ác cảm với ông. Tôi coi ông là một lão già ngây dại, loạn trí, kỳ quặc, ngu xuẩn, vô văn hoá. Tôi hằn học nhìn ông, quát lên với ông và thậm chí còn toan liệng cả miếng đá chặn giấy bằng cẩm thạch về phía ông - người đã trân trọng giữ gìn tấm hình vô giá này, một báu vật thiêng liêng của đời tôi đến tận bây giờ. Và, nếu không tình cờ gặp tôi ở đây thì chắc ông sẽ giữ mãi. Không chỉ mình ông, mà cả con trai ông nữa đã cứu sống tôi. Vậy mà tôi đã dám coi thường ông, đã nghĩ xấu về ông, tôi xử sự một cách vô đạo với ông. Tôi trở thành một kẻ đê tiện, một thằng khốn nạn, một đứa vong ơn bội nghĩa từ lúc nào ? Phải chăng cuộc sống đủ đầy trong hưởng thụ đã làm tôi mất dần nhân tính không còn biết nghĩ đến lớp lớp thế hệ tiền bối, không còn biết nghĩ đến những ai đã hy sinh xương máu để có hôm nay. Sự hy sinh của ông cao cả quá bởi lặng lẽ quá. Cũng phải chăng vì thế mà sớm bị lãng quên ? Hỡi ôi, trên đời này liệu còn bao nhiêu người đã hy sinh lặng lẽ như ông và đang bị lãng quên như ông. Hỡi ôi, trên đời này còn biết bao nhiêu kẻ đê tiện, khốn nạn, vong ơn bội nghĩa, tha hoá biến chất như tôi ?
     Biết làm gì bây giờ ? Trong lòng tôi cuồn cuộn mưa gào thác đổ, ngổn ngang bao nỗi ưu tư, ứ đầy cảm xúc và dồn dập ý tứ dồn đến trong đầu. Tôi ngồi vào bàn. Viết. Tôi viết như chưa bao giờ được viết. Tôi mê say. Tôi khóc. Tôi đau khổ xót xa, hối hận... Ngực nén ép lại, lòng bồi hồi thổn thức, nước mắt tràn qua mi. Tôi viết. Ngòi bút phóng tràn trên giấy, hết trang này đến trang khác. Chỉ có cách này mới mong chuộc lại lỗi lầm với ông lão...
      Tôi viết. Một giờ...hai giờ ...Rồi không biết mấy giờ trôi qua. Tôi ngồi liền như thế mà viết cho tới chữ cuối cùng. Khi buông bút ngẩng lên bỗng thấy vợ tôi đứng bên, hai mắt đỏ hoe âng ấng nước vẻ vô cùng xúc động. Thì ra em về và đứng phía sau tôi từ lâu lắm, đã đọc hết câu chuyện tôi viết. Đó chính là chuyện này, chuyện của tôi, chuyện về những người bị lãng quên, chuyện về những kẻ thoái hoá biến chất, vong ơn bội nghĩa. Câu chuyện phải viết chứ không thể không viết.
     Ngay hôm nay vợ chồng tôi sẽ đến tạ tội với ông lão. Một nhân cách lớn, một tâm hồn bao dung, độ lượng như ông, nhất định ông sẽ bỏ qua và tha thứ cho tôi./.